TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 827/2020/HS-PT NGÀY 05/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 05 tháng 11 năm 2020, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 702/2020/TLHS- PT ngày 01 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo Lê Xuân A1 do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 183/2020/HS-ST ngày 17/7/2020 của Tòa án quận CG, thành phố Hà Nội.
- Bị cáo có kháng cáo: Lê Xuân A1, sinh năm 1996; HKTT và nơi ở: Số 12/4/6 Chiến Thắng, phường VQ, quận Đ, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp Không; trình độ văn hoá (học vấn) 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông con ông Lê Xuân B1 và con bà Nguyễn Thị C1; chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 24/02/2020 đến ngày 02/3/2020. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 23h30’ ngày 23/02/2020, Tổ công tác C3D1 – PK02E thuộc Công an TP Hà Nội phối hợp với Công an phường YH, CG, Hà Nội làm nhiệm vụ trước số nhà 72 Nguyễn Khang, YH, CG, Hà Nội phát hiện Lê Thanh D2 (Sinh năm: 1992, HKTT: tổ 16 phường Thanh Bình, TP Điện Biên, Điện Biên) chở Lê Xuân A1 bằng xe máy hiệu YAMAHA, BKS: 29C1 – 544.73 có biểu hiện nghi vấn đã tiến hành kiểm tra. Tổ công tác kiểm tra D2 không phát hiện được gì, tiếp tục kiểm tra A1 thu giữ trong túi quần sau bên phải A1 đang mặc có 01 gói nilon chứa tinh thể màu trắng. Tại chỗ, A1 khai đây là ma túy “đá” để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác lập biên bản thu giữ tang vật và đưa A1, D2 về trụ sở Công an phường YH làm rõ. Ngoài ra, Cơ quan công an còn thu giữ của Lê Thanh D2 01 xe máy hiệu YAMAHA, BKS: 29C1 – 544.73.
Kết luận giám định số 1529/KLGĐ-PC09 ngày 03/3/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nilon là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,261gam.
Tại Cơ quan công an, Lê Xuân A1 khai: Khoảng 13h00’ ngày 23/02/2020 khi A1 đang ở khu vực VQ, Hà Đông thì có bạn xã hội là Nam (Không rõ địa chỉ nơi ở cụ thể) gọi điện rủ đi sử dụng ma túy. A1 đồng ý. A1 gặp N1, do N1 không có tiền nên A1 đã đưa cho N1 500.000 đồng để mua ma túy. Sau đó, N1 đi mua ma túy rồi quay lại cùng A1 đi vào một nhà nghỉ trên đường CG (A1 không nhớ rõ địa chỉ) để sử dụng ma túy. Tại nhà nghỉ, N1 bỏ ra một ít ma túy sử dụng, số còn lại N1 đưa cho A1 giữ. Cả hai sử dụng ma túy xong, N1 đi về trước còn A1 gọi điện cho Lê Thanh D2 (là em họ của A1) đến để chở đi uống nước. Khoảng 23h cùng ngày, D2 đến Cầu 361 Nguyễn Khang để chở A1. Khi cả hai chở nhau đến trước cửa số nhà 72 Nguyễn Khang thì bị lực lượng công an kiểm tra bắt giữ cùng tang vật. Việc A1 cất giấu ma túy trong người A1 không nói cho D2 biết.
Khám xét nơi ở của Lê Xuân A1 ở số 12/4/16 Chiến Thắng, VQ, Hà Đông, Hà Nội không thu giữ được gì liên quan đến vụ án.
Xét nghiệm trong nước tiểu của Lê Xuân A1 cho kết quả dương tính với ma túy. Xét nghiệm trong nước tiểu của Lê Thanh D2 cho kết quả âm tính với ma túy.
Lời khai của Lê Thanh D2 phù hợp với lời khai của Lê Xuân A1 và các tài liệu chứng cứ thu thập được trong hồ sơ. Việc A1 tàng trữ ma túy để sử dụng, D2 hoàn toàn không biết nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với D2.
Đối tượng tên N1, do Lê Xuân A1 không biết rõ tên tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không xác định được.
Đối với chiếc xe máy hiệu YAMAHA, biển kiểm soát: 29C1 – 544.73, số khung: 048535, số máy: 056149 thu giữ của Lê Thanh D2, anh D2 khai: Mượn xe của Bùi MA1 (Sinh năm 1988, trú tại Hoàng Văn Thụ, Hoàng Mai, Hà Nội) để đi đón A1. Anh Bùi MA1 khai mua chiếc xe trên của anh Nguyễn Kim TC1 (Sinh năm 1967, trú tại 65 Tràng Thi, Hàng Bông, Hoàn Kiếm, Hà Nội), ngày 23/02/2020 anh MA1 cho Lê Thanh D2 mượn để đi. Tra cứu tại đội Cảnh sát giao thông – Công an quận CG đăng ký chủ sở hữu là Nguyễn Kim TC1, địa chỉ: 65 Tràng Thi, Hàng Bông, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Xác minh tại Đội cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, xe không có trong cơ sở dữ liệu xe vật chứng. Cơ quan điều tra – Công an quận CG đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho anh Bùi MA1 chiếc xe trên. Anh Bùi MA1 đã nhận lại xe và không có yêu cầu gì.
Tại bản cáo trạng số 178/CT- VKS ngày 15/6/2020, Viện Kiểm sát nhân dân quận CG đã truy tố Lê Xuân A1 về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại bản án số 183/2020/HS-ST ngày 17/7/2020 của Tòa án nhân dân quận CG, TC1 phố Hà Nội đã quyết định:
Tuyên bố: Lê Xuân A1 phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Lê Xuân A1 15 (Mươi lăm) tháng tù. Hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 24/2/2020 đến 02/3/2020.
Ngoài ra bản án còn tuyên về phần án phí, quyền kháng cáo cho các bị cáo.
Không đồng ý với bản án sơ thẩm ngày 24/7/2020, Lê Xuân A1 có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Xuân A1 vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội kết luận vụ án và đề nghị:
- Về đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo trong thời hạn luật định nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận theo trình tự phúc thẩm.
- Về nội dung: Lê Xuân A1 có hành vi tàng trữ trái phép 0,261 gam Methamphetamine. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử Lê Xuân A1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng pháp luật. Cấp sơ thẩm đã xem xét tính chất mức độ hành vi phạm tội và xem xét tình tiết giảm nhẹ để xử phạt 15 tháng tù là có căn cứ. Tại phiên tòa không có tình tiết mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đề nghị căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của Lê Xuân A1 giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Lê Xuân A1 15 (Mươi lăm) tháng tù. Hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 24/2/2020 đến 02/3/2020.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau: (34) [1] Về đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của Lê Xuân A1 trong thời hạn luật định nên được Hội đồng xét xử chấp nhận theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung: Căn cứ vào lời khai của Lê Xuân A1 phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người làm chứng, cùng các tài liệu chứng cứ có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 23/02/2020 tổ công tác C3 D1 PK2E thuộc Công an thành phố Hà Nội phối hợp với Công an phường YH, CG, Hà Nội làm nhiệm vụ trước cửa số nhà 72 Nguyễn Khang, YH, CG, Hà Nội phát hiện và bắt quả tang Lê Xuân A1 có hành vi tàng trữ 0,261 gam Methamphetamine. Hành vi của Lê Xuân A1 đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý chất gây nghiện của nhà nước, bị cáo biết rõ tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng để thỏa mãn nhu cầu bản thân bị cáo vẫn tàng trữ 0,261 gam Methamphetamine. Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội và xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt Lê Xuân A1 15 tháng tù là có phần nghiêm khắc. Bởi lẽ, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối hận, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; cấp sơ thẩm chưa áp dụng khoản 2 Điều 51 BLHS cho bị cáo nên cần chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.
Chấp nhận kháng cáo của Lê Xuân A1, sửa bản án sơ thẩm số 183/2020/HS- ST ngày 17/7/2020 của Tòa án nhân dân quận CG, thành phố Hà Nội về phần quyết định hình phạt.
Tuyên bố: Lê Xuân A1 phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Lê Xuân A1 12 tháng tù. Hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 24/02/2020 đến ngày 02/3/2020.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vê án phí: Áp dụng điều 136 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo không phải nộp án phí Hình sự phúc thẩm.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 827/2020/HS-PT ngày 05/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 827/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về