Bản án 82/2020/HS-ST ngày 05/05/2020 về tội lưu hành tiền giả

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 82/2020/HS-ST NGÀY 05/05/2020 VỀ TỘI LƯU HÀNH TIỀN GIẢ

Ngày 05 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 100/2020/HSST ngày 26 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1690/2020/QĐXXST- HS ngày 20 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Hoàng Xuân H (tên gọi khác: Hoàng Xuân C, Nguyễn Xuân X, Hoàng Duy H), Giới tính: Nam, sinh ngày 16/5/1964, tại Quảng Bình; Nơi cư trú: Thôn X, xã Y, huyện Z, tỉnh Quảng Bình; Trình độ học vấn: 7/10; Nghề nghiệp: Buôn bán tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Hoàng Duy B (đã chết) và bà Hồ Thị N (đã chết); bị cáo sống như vợ chồng với Trần Thị K T sinh năm 1963 (nơi ở: không xác định); bị cáo có 01 con ruột sinh năm 1991.

Tiền án:

- Ngày 27/11/1993 bị Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xử phạt 75 tháng 21 ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 76/HS-ST, thi hành án tại trại giam A2, tỉnh K đến tháng 12/1996 thì trốn trại.

- Ngày 16/9/1999, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 2055/HSST, thi hành án tại trại giam T đến tháng 9/2000 chấp hành xong án phạt tù.

- Ngày 17/10/2001, bị Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 01 năm tù về tội “Sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận tài liệu cơ quan nhà nước” tổng hợp hình phạt là 05 năm tù theo Bản án số 1707/HSPT thi hành án tại trại giam B đến tháng 7/2005 chấp hành xong án phạt tù.

- Tháng 10/2005, bị Công an thành phố Hà Nội bắt về tội “Trộm cắp tài sản”, Tòa án nhân dân quận B xử phạt 05 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 01 năm tù về tội “Trốn khỏi nơi giam, giữ” tổng hợp Bản án số 76/HS-ST ngày 27/11/1993 do bị cáo chưa thi hành xong là 27 tháng 09 ngày tù, tổng hợp hình phạt chung phải chấp hành là 07 năm 03 tháng 09 ngày tù (Bản án số 17/2006/HSST ngày 20/01/2006).

- Ngày 08/9/2006 bị Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Khánh Hòa xử phạt 04 năm tù về tội “Trốn khỏi nơi giam” tổng hợp Bản án số 17/2006/HSST ngày 20/01/2006 của Tòa án nhân dân quận B, hình phạt chung phải chấp hành là 11 năm 03 tháng 09 ngày tù (Bản án số 33/2006/HSST) chấp hành xong ngày 23/12/2006.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/7/2019. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Hoàng Kim A HKTT: Đường Q, Phường E, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tạm trú: Đường N, Phường F, quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 08/7/2019 Hoàng Xuân H đến Phòng Giao dịch Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank), Phường F, quận H, Thành phố Hồ Chí Minh để chuyển tiền vào tài khoản của Doãn T H (ngụ tại tỉnh Hưng Yên) với số tiền 240 triệu đồng. Qua kiểm đếm, chị Đinh T H (là nhân viên ngân hàng) phát hiện trong 02 cọc tiền (501 tờ tiền VNĐ mệnh giá 500.000 đồng) có 30 tờ tiền giả (trị giá tương ứng 15 triệu đồng) nên báo Công an Quận 12 bắt lập biên bản phạm tội quả tang chuyển cơ quan An ninh điều tra xử lý theo thẩm quyền. Qua kiểm tra phát hiện trong ví cá nhân của H có 01 tờ tiền giả, mệnh giá 500.000 đồng cùng số seri KX 12736009 với 30 tờ tiền giải nêu trên.

Theo Kết luận giám định số 1343 ngày 07/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định: 31 (ba mươi mốt) tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng có cùng số seri KX 12736009 là tiền giả. Các tờ tiền được làm giả trên chất liệu giấy trắng, các nội dung in trên tờ tiền được in giả bằng các phương pháp in phun màu, giấy được cắt để lộ khoảng hở tạo hai ô cửa sổ trong suốt sau khi nội dung được in trên giấy bạc xong thì tờ giấy bạc được ép dính lớp nhựa mỏng trong suốt ở hai mặt để tạo thành tờ giấy bạc hoàn chỉnh.

Quá trình điều tra, Hoàng Xuân H khai: Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 07/7/2019, H nhận được điện thoại của người bạn tên T (không rõ lai lịch) hẹn gặp H. Cả hai gặp nhau tại Trường Cao đẳng Đ Thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây, T nhờ H chuyển tiền giúp cho người nhà vì T bận việc và mất giấy chứng minh nhận dân, H đồng ý. Sau đó T lấy trong cốp xe ra một túi nylon màu đen đưa cho H và nói đấy là số tiền 240 triệu đồng trong đó có tờ giấy ghi số tài khoản cần gửi là 030039137931 của Ngân hàng Sacombank chủ tài khoản tên Doãn T N ở Hưng Yên. H định mở bao nylon đựng tiền để kiểm trả nhưng T nói đủ rồi không cần H kiểm tra nên H tin tưởng không xem lại. Sau khi nhận xong, H bỏ tiền vào giỏ xác đen và đón xe ôm đi về ngã tư B P vào một quán cà phê (không nhớ tên, địa chỉ) gần đó uống nước đến khuya thì đi bộ vào chợ đầu mối T Đ ngủ tại một sạp bán hàng trong chợ. Đến khoảng 09 giờ ngày 08/7/2019, H đi xe ôm đến bến xe Đ M lấy xe Yamaha NVX, biển số 62Y-NNNNN(đã gửi trước đó) đi đến Ngân hàng Sacombank (địa chỉ: Đưởng G, Phường F, quận H, Thành phố Hồ Chí Minh) để chuyển số tiền do T nhờ, trong khi làm thủ tục chuyển tiền nhân viên ngân hàng phát hiện có tiền giả và báo cho Công an phường T L đến lập hồ sơ xử lý như đã nêu trên. H không thừa nhận hành vi phạm tội của mình và khai 30 tờ tiền giả trên là của T nhờ đưa gửi giùm.

Đối với Doãn T N hiện nay không có mặt tại địa phương, ghi lời khai của ông Doãn N (cha ruột T N) cho biết T N đi Lào làm xây dựng từ năm 2016 đến nay còn làm ở đâu thì gia đình không biết vì Hoàn không thường xuyên liên lạc với gia đình. Đối với người tên T do H khai không rõ lai lịch, địa chỉ nên cơ quan An ninh điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ để xử lý.

Tại Cáo trạng số 77/CT-VKS-P1 ngày 20/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Hoàng Xuân H về tội “Lưu hành tiền giả” theo Khoản 2 Điều 207 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 2 Điều 207, Điểm h, p Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đề nghị xử phạt bị cáo Hoàng Xuân H từ 07 (bảy) đến 08 (tám) năm tù về tội “Lưu hành tiền giả”.

- Về hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Hoàng Xuân H 20.000.000 đồng nộp vào ngân sách Nhà nước.

- Về xử lý vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy: 31 (ba mươi mốt) tờ tiền giả mệnh giá 500.000 đồng (năm trăm ngàn đồng) cùng số seri KX12736009, 01 ví da, 01 cặp da;

+ Tịch thu sung quỹ nhà nước 02 điện thoại hiệu Samsung A9 và Nokia;

+ Trả lại xe gắn máy cho bà Hoàng Kim A 01 Xe máy hiệu Honda, số loại: Vision biển số: 59X-AAAAA;

+ Tiếp tục tạm giữ 9.000.000 đồng để đảm bảo thi hành án;

- Hủy bỏ biện pháp phong tỏa tài khoản theo Lệnh Phong tỏa tài khoản số 01/ANĐT-Đ2 ngày 30/10/2019 của Cơ quan ANĐT Công an Thành phố Hồ Chí Minh đối với số tài khoản số 06017965xxxx tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín Sacombank Chi nhánh G, Thành phố Hồ Chí Minh của: họ tên Hoàng Xuân H sau khi trừ đi số tiền 11.000.000 (mười một triệu) đồng trong tài khoản trên để nộp ngân sách Nhà nước.

Tại phiên tòa, bị cáo Hoàng Xuân H khai không thực hiện hành vi phạm tội theo như bản cáo trạng đã nêu, không thừa nhận hành vi phạm tội của mình; Tuy nhiên bị cáo thừa nhận có thực hiện hành vi gửi số tiền 240 triệu đồng vào số tài khoản là 030039137931 của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) chủ tài khoản tên Doãn T N ở Hưng Yên tại Phòng Giao dịch Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) đưởng G, Phường F, quận H, Thành phố Hồ Chí Minh vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 08/7/2019. Trong đó có 30 tờ tiền giả mệnh giá 500.000.000 đồng và 01 tờ tiền giả mệnh giá 500.000 đồng trong ví của bị cáo.

Bị cáo sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật với số tiền giả tương ứng 15.500.000 đồng.

Lời nói sau cùng của bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định về vụ án như sau:

[1] Tại Biên bản bắt người phạm tội quả tang, các bản tường trình của bà Đinh T H, bà La Thị T L, ông Phan M T (là nhân viên ngân hàng - người làm chứng), bản tự khai do bị cáo viết và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở xác định: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 08/7/2019, tại Phòng giao dịch Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) đưởng G, Phường F, quận H, Thành phố Hồ Chí Minh bị cáo Hoàng Xuân H đã có hành vi chuyển 240 triệu đồng trong đó có 30 tờ tiền giả mệnh giá 500.000 đồng vào tài khoản của Doãn T N, thì bị phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng. Ngoài ra, còn khám xét thu giữ trong ví của H 01 tờ tiền giả mệnh giá 500.000 đồng. Do đó, bị cáo Hoàng Xuân H phải chịu trách nhiệm hình sự đối với số tiền giả có tổng giá trị tương ứng là 15.500.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Lưu hành tiền giả” được quy định tại Khoản 2 Điều 207 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội. Bị cáo khai 30 tờ tiền giả là của T đưa nhờ gửi giúp nhưng không giải thích được việc bị cáo có một tờ tiền giả đựng trong ví cá nhân của bị cáo trùng với số seri của 30 tờ tiền giả bị bắt quả tang. Trong trường hợp tiền giả trên là của T thì khi bị nhân viên ngân hàng phát hiện là tiền giả thì H phải gọi để thông báo cho T biết, nhưng H đã không gọi điện thoại báo cho T mà tự bỏ 10 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng để bù vào số tiền bị phát hiện. Ngoài ra, H khai số điện thoại 097BBBBBBB là của T sử dụng để liên lạc với bị cáo tuy nhiên qua xác minh thì số điện thoại trên là của anh Nguyễn V T (sinh ngày 01/01/1973, địa chỉ: xã P, huyện Y, tỉnh B) đứng tên chủ thuê bao. Anh T làm nghề buôn bán gà, sử dụng số điện thoại trên từ năm 2008 đến nay không quen biết ai tên Hoàng Xuân H, quá trình sinh sống tại địa phương không vi phạm pháp luật; kiểm tra nhật ký cuộc gọi và tin nhắn trong điện thoại Hoàng Xuân H không có cuộc gọi hay tin nhắn đến số điện thoại trên. Việc H khai vào khoảng 09 giờ ngày 08/07/2019 đi xe ôm đến Bến xe Đ M lấy xe máy đã gửi trước đó, kết quả xác minh tại Ban quản lý Bến Xe Đ M đã trích xuất dữ liệu camera từ ngày 01/7/2019 đến ngày 08/7/2019 không có ai vào gửi cũng như lấy chiếc xe Yamaha NVX, biển số 62Y-NNNNN như lời khai của H. Do đó, lời khai của bị cáo H là gian dối mục đích nhằm che giấu các mối quan hệ có liên quan trong vụ án và che giấu nguồn tiền giả.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại trật tự quản lý kinh tế, xâm phạm hoạt động phát hành, lưu hành, quản lý tiền tệ của Nhà nước. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo quanh co, liên tục thay đổi lời khai không thành khẩn khai báo nhằm mục đích che giấu tội phạm nên phải chịu tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi lưu hành tiền giả là trái pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có nhân thân xấu liên tiếp thực hiện hành vi phạm tội chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội do cố ý. Do đó, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới, giáo dục bị cáo ý thức tuân thủ pháp luật, giáo dục người khác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

[4] Về hình phạt bổ sung: Ngoài việc áp dụng hình phạt về nhân thân đối với bị cáo, Tòa án còn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng theo quy định tại khoản 5 Điều 207 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Xét cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố đối với bị cáo Hoàng Xuân H về khung, điều luật và tội danh như đã viện dẫn trên là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Xét phần luận tội của Kiểm sát viên về hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của họ đã thực hiện hợp pháp.

[7] Về xử lý vật chứng: Áp dụng quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: 31 (ba mươi mốt) tờ tiền giả mệnh giá 500.000 đồng (năm trăm ngàn đồng) cùng số seri KX12736009, 01 ví da, 01 cặp da.

- Đối với 01 thẻ căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe mang tên Hoàng Xuân H, 01 tờ tiền 20.000 đồng số seri SS14678849, hai tờ tiền hai USD số seri E11831111A và I01996493A, một tờ tiền hai mươi USD số seri VA1355897109, 01 tai nghe Samsung màu trắng Cơ quan điều tra đã trả cho bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với 01 xe gắn máy hiệu Yamaha NVX biển sổ 62Y-NNNNN. Kết quả xác minh tại Cục Cảnh sát giao thông xác định xe trên do Hồ Văn C địa chỉ:

11/314AB khu phố 3 T N, thị trấn T, huyện T, tỉnh Long An đứng tên đăng ký. Anh C khai đứng tên giùm người bạn tên Đ hiện không biết Đ làm gì, ở đâu. H khai mua của một người tên Đ ở Huyện C, tỉnh Long An (không rõ lai lịch) sử dụng. Ngày 08/7/2019 H điều khiển xe đến ngân hàng chuyển tiền sau đó bị thu giữ. Cơ quan An ninh điều tra đã đăng báo truy tìm chủ sở hữu nhưng chưa có người đến nhận. Do đó, nên tiếp tục cho đăng báo có thời hạn đối với xe gắn máy nêu trên nếu đến hạn mà không có người nhận thì tịch thu sung quỹ nhà nước;

- 01 xe máy hiệu Honda Vision biển sổ 59X-AAAAA do Hoàng Kim A đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Ngày 08/7/2019, sau khi nghe tin H bị bắt A đến Công an Phường F, quận H gặp H. H nhờ A lấy chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha NVX biển sổ 62G1-289.87C đang để ở ngân hàng. A đồng ý lấy về, Công an Phường F, quận H yêu cầu A nộp lại. Do sợ xe của H không có giấy tờ nên A đã tráo chiếc xe của mình xe máy hiệu Honda Vision biển sổ 59X-AAAAA nộp cho công an để dễ xin lại. Việc A đã tráo đổi chiếc xe của mình với xe gắn máy của H là do không hiểu biết pháp luật nên không đủ chứng cứ để xử lý. Quá trình điều tra, xác định A không liên quan đến hành vi phạm tội của Hoàng Xuân H nên trả lại xe máy hiệu Honda Vision biển sổ 59X-AAAAA cho bà Hoàng Kim A.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước: 02 chiếc điện thoại hiệu Samsung Galaxy A9 màu xanh dương, số imeil 1: 359933097830490 và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen của bị cáo.

- Tạm giữ 9.000.000 (chín triệu) đồng để đảm bảo thi hành án.

[8] Hủy bỏ biện pháp phong tỏa tài khoản theo Lệnh Phong tỏa tài khoản số 01/ANĐT-Đ2 ngày 30/10/2019 của Cơ quan An ninh điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đối với số tài khoản số 060179651192 tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín Sacombank - Chi nhánh G, Thành phố Hồ Chí Minh của: Họ tên Hoàng Xuân H sau khi trừ đi số tiền 11.000.000 (mười một triệu) đồng trong tài khoản trên để nộp ngân sách Nhà nước.

[9] Trong vụ án này, bị cáo H thực hiện hành vi chuyển tiền vào tài khoản của Doãn T N. Tuy nhiên, Doãn T N hiện nay không có mặt tại địa phương, ghi lời khai của ông Doãn N (cha ruột T N) cho biết T N đi Lào làm xây dựng từ năm 2016 đến nay còn làm ở đâu thì gia đình không biết vì T N không thường xuyên liên lạc với gia đình. Do đó, khi nào tìm được sẽ làm rõ, xử lý sau. Đối với người tên T do H khai không rõ lai lịch, địa chỉ nên cơ quan An ninh điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ để xử lý.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 47, khoản 2 Điều 207; điểm h, p khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;

- Căn cứ vào Điều 106, Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Tuyên bố bị cáo Hoàng Xuân H phạm tội “Lưu hành tiền giả”.

Xử phạt bị cáo Hoàng Xuân H 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/7/2019.

2. Về hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Hoàng Xuân H 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng nộp vào Ngân sách Nhà nước.

3. Về vật chứng vụ án:

- Tịch thu tiêu hủy: 31 (ba mươi mốt) tờ tiền giả mệnh giá 500.000 đồng (năm trăm ngàn đồng) cùng số seri KX12736009, 01 ví da, 01 cặp da.

- Giao Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục đăng báo tìm chủ sở hữu đối với 01 xe máy hiệu Yamaha số loại: NVX, biển số 62Y- NNNNN, số khung: RLCSG4540HYxxxxx, số máy: G3J7E-029xxx trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày đăng báo nếu hết thời hạn này mà không ai đến nhận thì tịch thu sung quỹ nhà nước.

- Trả lại cho bà Hoàng Kim A 01 Xe máy hiệu Honda, số loại: Vision biển số: 59X-AAAAA, số khung: RLHJF581XGYxxxx, Số máy: JF65E-052xxxx.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A9 màu xanh dương, số imeil 1: 359933097830490 và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen.

(Theo biên bản giao nhận tang tài vật số NK2020/191 ngày 16/3/2020 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).

- Tạm giữ để đảm bảo thi hành án số tiền 9.000.000 đồng (chín triệu đồng) theo Giấy nộp tiền vào tài khoản lập ngày 10/01/2020 người nộp Nguyễn T H nộp vào tài khoản số 3949.0.9061594.00000 tại Kho bạc Nhà nước quận T).

- Hủy bỏ biện pháp phong tỏa tài khoản theo Lệnh Phong tỏa tài khoản số 01/ANĐT-Đ2 ngày 30/10/2019 của Cơ quan An ninh điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đối với số tài khoản số 060179651192 tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín Sacombank - Chi nhánh G, Thành phố Hồ Chí Minh của: Họ tên Hoàng Xuân H sau khi trừ đi số tiền 11.000.000 (mười một triệu) đồng trong tài khoản trên để nộp ngân sách Nhà nước.

4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

408
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 82/2020/HS-ST ngày 05/05/2020 về tội lưu hành tiền giả

Số hiệu:82/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về