Bản án 82/2020/HNGĐ-ST ngày 25/09/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 82/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/09/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 25 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 255/2020/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 5 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 391/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 451/2020/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 9 năm 2020 giữa:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Minh T, sinh năm 1971 Nơi cư trú: Khu phố 06, phường Đ, Tp P, tỉnh Bình Thuận; Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Đào Duy L, sinh năm 1968 Nơi cư trú: Khu phố 06, phường Đ, Tp P, tỉnh Bình Thuận; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Minh T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Minh T và ông Đào Duy L chung sống với nhau từ năm 2000 và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Phú Sơn, Tp Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Thời gian đầu ông bà chung sống hạnh phúc nhưng từ khi có con, cuộc sống không còn như lúc ban đầu, ông L không có trách nhiệm với vợ con, không chăm lo cho đến đời sống gia đình. Do con còn nhỏ nên bà cố gắng chịu đựng để con có một gia đình trọn vẹn nhưng thời gian trôi qua, ông L vẫn không thay đổi để cùng bà xây dựng hạnh phúc gia đình. Năm 2014 bà có yêu cầu ly hôn nhưng vì con còn nhỏ nên đã rút lại đơn khởi kiện, tuy nhiên sau đó ông L vẫn chứng nào tật nấy; Khoảng 01 năm nay ông bà vợ chồng không còn thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, cùng nhau chia sẻ công việc gia đình và không còn chung sống với nhau, mạnh ai nấy sống. Nay bà T xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn.

Về con chung: Bà T khai giữa bà và ông L có 01 con chung tên Đào Nguyễn Phú Đức, sinh ngày 20/9/2001 nay đã trưởng thành.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà T chưa yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với ông Đào Duy L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần cũng như tống đạt các văn bản tố tụng như Thông báo về việc thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa. Ông L biết rõ nội dung của các văn bản trên của Tòa án nhưng từ chối nhận và không đến Tòa án và cũng không trình bày ý kiến của mình.

Vụ án không hòa giải được do ông L không đến tòa.

Sau khi người tham gia tố tụng trình bày ý kiến, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết phát biểu ý kiến về việc tuân thủ theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng dân sự quy định. Nguyên đơn chấp hành tốt các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Bị đơn chấp hành chưa tốt các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án đề nghị Hội đồng xét xử, xử theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Minh T được ly hôn với ông Đào Duy L; Về con chung: Bà Nguyễn Thị Minh T và ông Đào Duy L có 01 con chung tên Đào Nguyễn Phú Đức, sinh ngày 20/9/2001 nay đã trưởng thành; Về tài chung và nợ chung: Do đương sự chưa yêu cầu giải quyết nên không xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Bà Nguyễn Thị Minh T yêu cầu ly hôn ông Đào Duy L. Bị đơn ông Đào Duy L cư trú tại Khu phố 06, phường Đ, Tp P, tỉnh Bình Thuận. Vì vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp là “Ly hôn” được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Ông Đào Duy L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do; Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt ông L.

[3] Về nội dung vụ án:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Minh T và ông Đào Duy L chung sống với nhau vào năm 2000 và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Phú Sơn, Tp Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa theo Giấy chứng nhận kết hôn số 23 ngày 28/02/2000 nên quan hệ hôn nhân của bà T, ông L là hợp pháp.

Tại phiên tòa, bà T cho rằng khoảng 01 năm nay bà và ông L không còn thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, cùng nhau chia sẻ công việc gia đình và cũng không còn chung sống với nhau, mạnh ai nấy sống nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn. Ông L đã biết bà T có yêu cầu ly hôn với ông và đã được Tòa án thụ lý để giải quyết nhưng vẫn không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu của bà T để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông.

Khoản 1 Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc; cùng nhau chia sẻ, thực hiện công việc gia đình”; Khoản 2 Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ chung sống với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác” và khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”.

Từ lời khai của đương sự và quy định của Luật được viện dẫn nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy: Bà T không còn thương yêu ông L, ông bà không còn quan tâm, chăm sóc, cùng nhau chia sẻ, thực hiện công việc gia đình; Tòa án cũng đã thông báo để hòa giải mâu thuẫn của vợ chồng bà T, ông L để đoàn tụ nhưng ông L vẫn không đến tòa, bà T cũng không có thiện chí quay trở lại chung sống với ông L và vẫn tiếp tục không chung sống với nhau, không quan tâm đến nhau nên đã vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng được quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Tại phiên tòa hôm nay ông L vẫn không có mặt, chứng tỏ ông không có thiện chí hòa giải mâu thuẫn với bà T để hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Từ phân tích nêu trên chứng tỏ bà T, ông L đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên đã thỏa mãn điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3.2] Về con chung: Bà T khai giữa bà và ông L có 01 con chung tên Đào Nguyễn Phú Đức, sinh ngày 20/9/2001 nay đã trưởng thành nên Hội đồng xét xử không xét.

[3.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà T chưa yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[4] Về án phí: Bà Nguyễn Thị Minh T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp Phan Thiết tại phiên tòa về quan điểm giải quyết vụ án là phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

Vì những lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 235, 266, 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 19, 51, 56, 57 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và Luật thi hành án dân sự.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Minh T.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Minh T được ly hôn với ông Đào Duy L.

Về con chung: Bà T và ông L có 01 con chung tên Đào Nguyễn Phú Đức, sinh ngày 20/9/2001 nay đã trưởng thành.

Về tài sản chung và nợ chung: Chưa yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị Minh T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình. Bà Nguyễn Thị Minh T đã nộp đủ án phí theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0007542 ngày 27/5/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Thiết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bà Nguyễn Thị Minh T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Ông Đào Duy L có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 82/2020/HNGĐ-ST ngày 25/09/2020 về ly hôn

Số hiệu:82/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về