Bản án 82/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 82/2018/HS-ST NGÀY 28/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện An Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 64/2018/TLST-HS ngày 18 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2018/QĐXXST- HS ngày 16 tháng 11 năm 2018 và Thông báo bổ sung người tham gia tố tụng số 19/TB-TA ngày 19 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Xuân B, sinh ngày 11 tháng 10 năm 1968 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn T, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: Lớp 01/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Xuân G và bà Bùi Thị H; vợ: Lê Thị C và có 02 con; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 16 tháng 6 năm 2017, Công an xã Lê Lợi, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản (chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính); bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 04 tháng 7 năm 2018, chuyển tạm giam từ ngày 06 tháng 7 năm 2018 đến nay; có mặt.

- Bị hại: Ông Lê Hồng L, sinh năm 1968; nơi cư trú: Số 142 K, phường K, quận L1, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của bị hại: Anh Nguyễn Bình D, sinh năm 1976; nơi cư trú: Thôn V, xã Đ1, huyện A, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Lê Thị C, sinh năm 1980; nơi cư trú: Thôn T, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt. 

- Người làm chứng: Anh Vũ Văn M, anh Lê Minh T1 và anh Q; đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ ngày 22 tháng 3 năm 2018, Nguyễn Xuân B điều khiển xe mô tô hiệu Viva Suzuki biển số 16F2-5126 từ nhà ở thôn T, xã Đ, huyện A, Hải Phòng mang theo 01 chiếc mai cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại và 01 đoạn dây cao su với ý định đi đào trộm cây cảnh mang về bán lấy tiền. Khi đi đến khu vực nghĩa trang thôn V1, xã Đ1, huyện A, Hải Phòng, B phát hiện trong khuôn viên lăng mộ của gia đình ông Lê Hồng L, có trồng 01 cây ngâu tán hình chóp, cao khoảng hơn 2m nên đã dừng xe lại. B dựng xe ở ngoài đường bê tông, mang theo chiếc mai đi bộ vào trong khuôn viên khu lăng mộ. B thấy gốc cây được khóa bằng 01 đoạn dây cáp kim loại bọc nhựa, khóa vào 01 cọc sắt nhưng dây cáp đã bị cắt đứt nên kéo đoạn dây ra. B dùng mai đào đất xung quanh gốc cây, dùng tay nhổ cây ngâu lên rồi vác lên vai, đi ra xe, đặt cây lên yên sau của xe, dùng dây cao su chằng buộc rồi chở về nhà, đem cây ngâu trồng vào 01 chậu xi măng trong khuôn viên vườn nhà. Đến 08 giờ cùng ngày, anh Nguyễn Bình D là cháu của ông Lê Hồng L phát hiện bị mất cây ngâu ở lăng mộ nên có đơn trình báo Công an huyện An Dương. Đồng thời, anh D nhờ anh Vũ Văn M tìm giúp. Anh M đồng ý và gọi điện cho anh Lê Minh T1 nhờ đi tìm. T1 đi xe mô tô sang xã Đ, huyện A thì phát hiện trong khuôn viên nhà B có 01 cây ngâu có đặc điểm giống cây ngâu nhà anh D bị mất nên anh T1 đã báo cho anh M biết. Khoảng 17h cùng ngày, anh M, anh T1 cùng anh Q đến nhà B. Anh M vào gặp B nói chuyện cây ngâu ở mộ nhà anh D bị mất thì B thừa nhận việc ăn trộm cây ngâu tại khu lăng mộ và nhờ anh M trả lại cây. Sau đó, B và anh T1 nhấc cây ngâu ra khỏi chậu, đặt cây ngâu và chiếc mai cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại B đã sử dụng đào trộm cây lúc trước lên xe ba gác và anh T1 kéo sau xe mô tô chở về trả cho anh D.

Quá trình khám nghiệm hiện trường, Cơ quan điều tra thu giữ 01 đoạn dây cáp kim loại bọc nhựa, bị cắt làm đôi và 01 chiếc khóa hiệu Việt Tiệp. Ngày 29 tháng 3 năm 2018, chị Lê Thị C (vợ bị cáo B) đã giao nộp: 01 dây cao su, 01 xe mô tô biển số 16F2-5126 là công cụ B sử dụng trộm cắp cây ngâu và 01 chiếc mai cán bằng sắt, lưỡi bằng kim loại để phục vụ công tác điều tra.

Tại Bản Kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện An Dương ngày 18 tháng 4 năm 2018 kết luận: Cây ngâu bị B trộm cắp có trị giá 5.000.000 đồng.

Ngày 30 tháng 5 năm 2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Dương đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Xuân B về hành vi Trộm cắp tài sản. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra nhiều lần triệu tập B lên làm việc nhưng B vắng mặt tại địa phương nên Cơ quan điều tra đã ra Quyết định truy nã đối với Nguyễn Xuân B. Ngày 04 tháng 7 năm 2018, Nguyễn Xuân B bị bắt giữ tại nhà riêng. Thu giữ trong túi quần phía trước, bên trái B đang mặc 01 bao thuốc lá Vinataba, bên trong có 10 điếu và 01 túi nilon màu trắng kích thước 7x11 cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng, B khai là ma túy đá mua về để sử dụng. Ngoài ra thu giữ chiếc xe mô tô Sunfat đeo biển số 16N-7362 để ở đường bê tông khu vực cổng nhà Nguyễn Xuân B.

Tại bản kết luận giám định số 395 ngày 06 tháng 7 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Mẫu tinh thể thu giữ của B gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,4360 gam, là loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Xuân B khai nhận hành vi trộm cắp tài sản như đã nêu trên. Về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy: Ngày 04 tháng 7 năm 2018, B đi xuống đường tàu Trần Nguyên Hãn mua ma túy đá của 01 người đàn ông không quen biết với giá 200.000 đồng. B bỏ ma túy vừa mua được vào bao= thuốc lá mang về nhà để sử dụng. Về nguồn gốc xe mô tô Sunfat đeo biển số 16N-7362 Cơ quan điều tra thu giữ khi đang nằm trong chòi ở ngoài vườn thì B nghe thấy có tiếng người đàn ông nói vọng vào: “Anh B ơi cho em gửi nhờ cái xe tí”. B bảo: “Cứ để đấy”. Một lúc sau thì lực lượng Công an vào nhà bắt giữ B. B không biết người gửi xe mô tô là ai.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Nguyễn Xuân B khai nhận hành vi trộm cắp tài sản và tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung trên.

Người đại diện theo ủy quyền của bị hại anh Nguyễn Bình D khai cây ngâu trong khuôn viên lăng mộ của gia đình ông Lê Hồng L bị bị cáo Nguyễn Xuân B chiếm đoạt ông L đã nhận lại. Nay bị hại không có yêu cầu gì khác và đề nghị Tòa án xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại Cáo trạng số 66/CT-VKS ngày 17 tháng 10 năm 2018 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương truy tố bị cáo Nguyễn Xuân B về các tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Sau phần xét hỏi công khai tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương phân tích hành vi phạm tội, đánh giá tính chất vụ án, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1, Điều 173; điểm s, khoản 1 và khoản 2, Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân B từ 12 đến 15 tháng tù về tội: "Trộm cắp tài sản".

Áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s, khoản 1 và khoản 2, Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân B từ 18 đến 24 tháng tù về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng Điều 55 Bộ luật Hình sự về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội buộc bị cáo Nguyễn Xuân B phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội từ 30 đến 39 tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo B tính từ ngày 04 tháng 7 năm 2018.

Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Xuân B.

- Về vật chứng: Căn cứ điểm a, điểm c, khoản 1, Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a điểm c khoản 2, điểm a khoản 3, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, 01 chiếc mai cán bằng gỗ lưỡi bằng kim loại, 01 bao thuốc Vinataba bên trong có 10 điếu thuốc, 01 đoạn dây cao su; tịch thu phát mại 1/2 chiếc xe mô tô hiệu Viva Suzuki biển số 16F2- 5126 để sung vào ngân sách nhà nước. Trả lại cho chị Lê Thị C 1/2 trị giá xe mô tô hiệu Viva Suzuki biển số 16F2-5126.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại gì nên các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

 [2] Về chứng cứ xác định có tội:

Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với lời khai của người đại diện theo ủy quyền của bị hại, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ xác định: Khoảng 05 giờ 30 phút ngày 28 tháng 3 năm 2018, bị cáo Nguyễn Xuân B đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản 01 cây ngâu trị giá 5.000.000 đồng tại lăng mộ của gia đình ông Lê Hồng L tại nghĩa trang thôn V1, xã Đ1, huyện A, Hải Phòng. Ngày 04 tháng 7 năm 2018, Nguyễn Xuân B có hành vi cất giấu trái phép 0,4360 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng.

 [3] Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại cây ngâu trị giá 5.000.000 đồng của bị cáo Nguyễn Xuân B đã phạm vào tội: “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự.

 [4] Hành vi cất giấu trái phép 0,4360 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng của bị cáo Nguyễn Xuân B đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương truy tố và đề nghị áp dụng đối với bị cáo Nguyễn Xuân B về tội danh và điều luật như trên là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

- Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

 [5] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đối với hành vi trộm cắp tài sản đã xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân; đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Việc tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý không chỉ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, trí lực của con người, mà từ ma tuý đã làm phát sinh nhiều tội phạm khác. Vì vậy, đối với hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử phạt nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

 [6] Bị cáo Nguyễn Xuân B không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

 [7] Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có anh ruột ông Nguyễn Xuân T2 là liệt sỹ hy sinh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1 và khoản 2, Điều 51 Bộ luật Hình sự.

 [8] Bị cáo phạm hai tội nên cần áp dụng Điều 55 Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt đối với bị cáo.

- Về hình phạt bổ sung:

 [9] Xét bị cáo có không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng:

 [10] Các tài sản thuộc sở hữu của bị hại gồm: 01 cây ngâu, 01 đoạn dây cáp kim loại bọc nhựa đã bị đứt và 01 chiếc khóa Việt Tiệp, Cơ quan điều tra cho bị hại. Các tài sản gồm: 01 xe kéo tự chế và 01 chiếc mai cán bằng sắt, lưỡi bằng kim loại thuộc sở hữu của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên Cơ quan điều tra đã trả cho vợ bị cáo là chị Lê Thị C.

 [11] Đối với 01 chiếc xe mô tô hiệu Viva Suzuki biển số 16F2-5126 là tài sản chung của bị cáo và vợ là chị Lê Thị C, 01 đoạn dây cao su, 01 chiếc mai cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại là công cụ bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội; 01 bao thuốc Vinataba bên trong có 10 điếu thuộc sở hữu của bị cáo không còn giá trị sử dụng; số ma túy còn lại sau giám định là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành. Nên tịch thu tiêu hủy 01 đoạn dây cao su, 01 bao thuốc Vinataba bên trong có 10 điếu, số ma túy còn lại sau giám định, 01 chiếc mai cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại; tịch thu phát mại 1/2 xe mô tô hiệu Viva Suzuki biển số 16F2-5126 để sung vào ngân sách nhà nước. Trả lại cho chị Lê Thị C 1/2 trị giá xe mô tô hiệu Viva Suzuki biển số 16F2-5126.

- Về trách nhiệm dân sự:

 [12] Bị hại đã nhận lại cây ngâu và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xét.

- Về những vấn đề khác:

 [13] Đối với xe mô tô Sunfat, đeo biển số 16N-7362, tài liệu điều tra không đủ căn cứ chứng minh bị cáo Nguyễn Xuân B có liên quan đến việc trộm cắp chiếc xe trên nên Cơ quan điều tra không xử lý đối với bị cáo và tách chiếc xe mô tô trên làm rõ xử lý sau.

 [14] Đối với người đàn ông bán ma túy của Nguyễn Xuân B ở khu vực đường tàu Trần Nguyên Hãn, hiện chưa xác định được lai lịch địa chỉ nên Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, làm rõ, xử lý sau.

- Về án phí:

 [15] Theo quy định của pháp luật, bị cáo Nguyễn Xuân B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1, Điều 173; điểm s, khoản 1 và khoản 2, Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân B 12 (Mười hai) tháng tù về tội: "Trộm cắp tài sản".

Căn cứ điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s, khoản 1 và khoản 2, Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân B 18 (Mười tám) tháng tù về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Căn cứ Điều 55 Bộ luật Hình sự về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội buộc bị cáo Nguyễn Xuân B phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo B tính từ ngày 04 tháng 7 năm 2018.

Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Xuân B.

- Về vật chứng: Căn cứ điểm a, điểm c, khoản 1, Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a điểm c khoản 2, điểm a khoản 3, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định; 01 bao thuốc Vinataba bên trong có 10 điếu; 01 đoạn dây cao su; 01 chiếc mai cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại. Tịch thu phát mại 1/2 xe mô tô hiệu Viva Suzuki biển số 16F2-5126 để sung vào ngân sách nhà nước. Trả lại cho chị Lê Thị C 1/2 trị giá xe mô tô hiệu Viva Suzuki biển số 16F2-5126.  (Toàn bộ các vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương đang quản lý theo Biên Bản giao nhận vật chứng ngày 18 tháng 10 năm 2018 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Dương và Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương).

- Về án phí: Áp dụng khoản 2, Điều 135; khoản 2, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6; điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016 buộc bị cáo Nguyễn Xuân B phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

- Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

299
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 82/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:82/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về