Bản án 82/2018/HNGĐ-ST ngày 26/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY NAM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 82/2018/HNGĐ-ST NGÀY 26/10/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện M, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 395/2017/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 8 năm 2018 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 262/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 9 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Thị L, sinh năm: 1986, địa chỉ: Ấp PT, xã BKĐ, huyện M, tỉnh Bến Tre (Có mặt).

2. Bị đơn: Anh Trần Tấn K, sinh năm: 1985, địa chỉ: Ấp PT, xã BKĐ, huyện M, tỉnh Bến Tre (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 17 tháng 9 năm 2018, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn là chị Thị L trình bày:

Chị và anh Trần Tấn K tự nguyện chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã BKĐ, huyện M, tỉnh Bến Tre vào năm 2008. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được khoảng thời gian, về sau anh K thường xuyên cờ bạc, không chịu làm việc từ đó kinh tế gia đình gặp khó khăn nên vợ chồng hay cãi nhau. Chị và anh K không còn sống chung với nhau đến nay khoảng 05 năm. Nhận thấy thời gian không sống chung với nhau đã lâu, tình cảm vợ chồng không còn và không thể tiếp tục chung sống với nhau nên chị xin được ly hôn với anh K.

Trong thời gian chung sống, chị và anh K có 01 con chung tên Trần Trung H, sinh ngày 16 tháng 01 năm 2007. Hiện tại, cháu Hậu đang sống chung với anh K. Chị đồng ý để anh K tiếp tục nuôi dưỡng con chung, chị không cấp dưỡng cho con.

Chị và anh K không có tài sản chung, không có nợ chung.

Do bị đơn là anh Trần Tấn K vắng mặt tại các buổi hòa giải và phiên tòa nên không có trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Kiểm sát viên trình bày ý kiến phát biểu về nội dung và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng dân sự: Chị Thị L có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện M giải quyết ly hôn, tranh chấp về nuôi con giữa chị với anh Trần Tấn K. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Bến Tre.

Anh Trần Tấn K là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh K.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Thị L và anh Trần Tấn K chung sống có đăng ký kết hôn năm 2008 tại Ủy ban nhân dân xã BKĐ, huyện M, tỉnh Bến Tre nên quan hệ hôn nhân giữa chị Linh và anh K được xem là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, chị Linh cho rằng chị và anh K mâu thuẫn do anh K thường xuyên cờ bạc, không chịu làm việc để chăm lo cho gia đình. Chị và anh K không còn sống chung với nhau đến nay khoảng 05 năm, không ai quan tâm gì đến nhau, tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống với nhau nên chị xin ly hôn với anh K. Tòa án đã triệu tập anh K đến để hòa giải, tìm phiện pháp hàn gắn đoàn tụ nhưng anh K không đến.

Như vậy, nhận thấy tình trạng hôn nhân của chị Linh và anh K đã trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Linh để giải quyết cho chị được ly hôn với anh K.

[3] Về con chung: Chị Linh và anh K có 01 con chung tên là Trần Trung H, sinh ngày 16 tháng 01 năm 2007. Chị Linh để anh K tiếp tục nuôi dưỡng cháu H, chị không cấp dưỡng cho con.

Hội đồng xét xử xét thấy, hiện tại cháu H đang sống với anh K và có nguyện vọng được tiếp tục sống với anh. Do đó, để đảm bảo tâm sinh lý của các cháu được ổn định nên cần giao cháu H cho anh K tiếp tục nuôi dưỡng. Đối với việc cấp dưỡng nuôi con do hiện tại anh K không có ý kiến, nếu anh K có yêu cầu thì sẽ giải quyết bằng một vụ án khác.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Linh khai chị và anh K không có tài sản chung, không có nợ chung nên không xem xét.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Linh phải chịu 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 227, Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Tuyên xử:

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Thị L. Chị Thị L được ly hôn với anh Trần Tấn K.

Về con chung: Chị Thị L và anh Trần Tấn K có một con chung tên Trần Trung H, sinh ngày 16 tháng 01 năm 2007.

Anh Trần Tấn K được tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cháu Trần Trung H.

Chị Thị L không cấp dưỡng cho con chung.

Chị Thị L được quyền thăm nom con chung, không ai được quyền cản trở chị thực hiện quyền này.

Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án quyết định thay đổi việc cấp dưỡng cho con.

Trong trường hợp có yêu cầu của một hoặc cả hai bên hoặc của cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Thị L trình bày không có tài sản chung, không có nợ chung nên không xem xét.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Thị L phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0020753 ngày 17 tháng 9 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện M. Chị Thị L đã nộp đủ án phí.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 82/2018/HNGĐ-ST ngày 26/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:82/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Nam - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:26/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về