Bản án 813/2019/HS-PT ngày 05/12/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 813/2019/HS-PT NGÀY 05/12/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 535/2019/TLPT-HS ngày 20 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo Lê Trường S do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 22/2019/HSST ngày 14 tháng 8 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước.

- Bị cáo có kháng cáo: Lê Trường S (không có tên gọi khác), S năm 1982 tại Ninh Thuận; nơi cư trú: Ấp 8, xã Th, huyện C, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Đ và bà Ngô Thị Cẩm Y, bị cáo có vợ Phạm Thị Ngọc H và 02 người con, lớn nhất S năm 2007, nhỏ nhất S năm 2010; tiền án: Ngày 30/6/2011 tại Bản án số 165/2011/HSPT của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 năm tù về tội “Hiếp dâm”. Ngày 09/5/2015, bị cáo S chấp hành xong hình phạt tù nhưng bị cáo chưa chấp hành xong phần trách nhiệm dân sự; tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/9/2018 đến nay (có mặt)

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Lê Minh T, là Luật sư Văn phòng Luật sư M, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Bình Phước (có mặt)

Ngoài ra, vụ án còn có bị cáo Trần Công Ph, 03 bị hại, 03 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong thời gian từ ngày 29/7/2018 đến 29/8/2018, Trần Công Ph và Lê Trường S thực hiện 02 vụ Trộm cắp tài sản như sau:

Vụ thứ nhất: Do quen biết từ trước, ngày 26/7/2018, Ph gọi điện rủ S đến tỉnh Đắk Nông chơi thì S đồng ý. S đến TP B, tỉnh Đồng Nai mượn xe mô tô Exciter 150 (không rõ biển số) của bạn tên S (không xác định được nhân thân lai lịch) rồi điều khiển xe đến xã Đ, huyện Đ1, tỉnh Đăk Nông gặp Ph, ở lại chơi với Ph. Ph nảy S ý định trộm cắp tài sản để lấy tiền tiêu xài nên chuẩn bị một xà beng, một tuýp sắt và một tuốc nơ vít bỏ vào giỏ rồi rủ S tham gia thì S đồng ý. Ngày 27/7/2018, S điều khiển xe mô tô Exciter chở Ph lưu thông trên Quốc lộ 14 theo hướng từ tỉnh Đắk Nông về tỉnh Bình Phước, khi đến khu vực xã Đ2, huyện Đ3 thì cả hai vào thuê phòng tại nhà nghỉ “H” do bà Nguyễn Thị L (SN 1966, HKTT: ấp 4, xã Đ2, huyện Đ3, tỉnh Bình Phước) làm chủ để nghỉ. Đến khoảng 01 giờ ngày 29/7/2018, S điều khiển xe chở Ph trên Quốc lộ 14 tìm nhà dân để đột nhập trộm cắp tài sản. Khi đến tiệm sửa ô tô do ông Trần Văn Tr (SN 1968, HKTT: ấp B, xã Đ4, huyện Ch, tỉnh Tây Ninh) làm chủ thuộc ấp 1, xã Đ5, huyện Đ3, Ph xuống xe mang theo túi xách đựng công cụ đi ra phía sau nhà ông Tr còn S đợi bên ngoài. Ph dùng xà beng cạy vào cánh cửa tạo khe hở rồi đưa tuốc nơ vít qua khe hở gạt mở chốt cửa bên trong (cửa không khóa). Ph đột nhập vào bên trong là khu vực phòng vệ S. Đi qua khu vực phòng vệ S đến cửa tiếp theo, Ph nhìn qua khe cửa thấy bên trong còn điện sáng, người trong nhà đã ngủ. Ph dùng tuốc nơ vít đưa qua khe cửa, gạt chốt mở cửa bên trong rồi đột nhập vào trong để tìm tài sản thì thấy trên nóc tủ lạnh gần giường ngủ có 02 điện thoại hiệu Samsung (một chiếc A6 màu đen, một chiếc J7 màu xanh bạc) và 01 két sắt hiệu “BAUCHETR” đặt ở nền nhà phía cuối giường, lúc này vợ chồng ông Tr đang ngủ trên giường, trên két sắt để 01 ti vi. Ph lấy 02 điện thoại đem ra cửa sau tháo sim và thẻ nhớ của 02 điện thoại để lại, bỏ 02 điện thoại vào túi quần rồi quay lại chỗ để két sắt. Ph bê ti vi để qua bàn bên cạnh, dùng quần áo có sẵn trong phòng lót xuống nền gần két sắt, dùng tay đẩy ngã két xuống đống quần áo rồi kéo quần áo mang theo két sắt qua cửa sau ra ngoài. Ph tìm kiếm đồ vật để chặn sau cánh cửa thì phát hiện 04 can nhựa loại 30 lít đựng đầy dầu, Ph dùng 04 can dầu chặn phía sau 02 cánh cửa để đề phòng trường hợp chủ nhà phát hiện thì có cơ hội tẩu thoát. Sau đó, Ph dùng xà beng, tuýp sắt đục, cạy phá làm bung cửa két. Bên trong két có một bọc ny lông màu trắng, bên ngoài có chữ “Ngân hàng K” đựng nhiều xấp tiền mệnh giá 500.000đ, một con heo đất màu vàng, một ví da nữ màu đen và một số giấy tờ. Ph lấy túi ny lông đựng tiền cất vào giỏ xách (giỏ đựng công cụ), lấy toàn bộ tiền và số vàng trong ví da bỏ vào giỏ xách, vứt ví xuống đất bên cạnh két sắt rồi lấy heo đất, cầm theo giỏ xách đi ra Quốc lộ 14. Trên đường đi, Ph bẻ vỡ heo đất lấy toàn bộ số tiền bên trong cho vào giỏ xách rồi gọi điện thoại cho S đến đón chở về nhà nghỉ “H”. Ph chia cho S 02 điện thoại, toàn bộ số vàng và toàn bộ số tiền trong ví da và heo đất là 16.000.000đ. Sau đó, Ph đón xe khách về nhà còn S điều khiển xe về Đồng Nai, khi đến khu vực thành phố mới tỉnh Bình Dương, S gặp đối tượng quen biết ngoài xã hội tên Th (không xác định được nhân thân lai lịch), S nhờ Th bán toàn bộ số vàng được 16.000.000 đ (mười sáu triệu đồng). S về tới TP B, tỉnh Đồng Nai trả xe mô tô Exciter 150 cho S. Ngày 31/7/2018, S bán chiếc điện thoại Samsung J7 cho Nguyễn Văn T (SN 1988, HKTT: ấp 8, xã Th, huyện C, tỉnh Đồng Nai) được 2.000.000 đ, còn lại chiếc điện thoại Samsung A6, S giữ lại để sử dụng và tiên xài hết số tiền trên.

Đối với Ph, khi về đến nhà, Ph lấy tiền trong túi ny long đếm được 500.000.000đ (bao gồm 10 xấp tiền, mệnh giá 500.000đ, mỗi xấp đếm được 50.000.000đ), Ph đốt túi ly long rồi cất giữ toàn bộ số tiền. Ph đến tiệm vàng “N” tại thị trấn K, tỉnh Đắk Nông do anh Nguyễn Hữu Ph1c (SN 1989, HKTT: tổ dân phố 6, thị trấn K, huyện Đ1, tỉnh Đắk Nông) làm chủ mua một nhẫn vàng 18k, trọng lượng 3,7 chỉ với giá 7.650.000đ để đeo, trả nợ 10.000.000 đ cho chị Lê Thị Ngọc Th (SN 1990, HKTT: thôn B, xã Q, huyện Đ1, tỉnh Đắk Nông). Số tiền còn lại Ph sử dụng ghi số đề với đối tượng H (không xác định được nhân thân lai lịch) tại huyện Đ1 và tiêu xài hết.

Vụ thứ 2: Ngày 26/8/2018, Ph mang theo túi xách đựng công cụ dùng cạy, phá két sắt đón xe đến ấp 8, xã Th, huyện C, tỉnh Đồng Nai chơi với S. Tại đây, Ph tiếp tục rủ S đến tỉnh Bình Phước trộm cắp tài sản lấy tiền chia nhau tiêu xài thì S đồng ý. Ngày 27/8/2018, S điều khiển xe mô tô loại Jupiter màu đỏ - đen của S (không rõ biển số) chở Ph từ Đồng Nai đến nhà nghỉ “H” ngủ chờ cơ hội đi trộm cắp. Khoảng 01 giờ sáng ngày 29/8/2018, S điều khiển xe chở Ph tìm nhà dân ở hai bên Quốc lộ 14 có tài sản để đột nhập. Khi đến khu vực ấp 3, xã Đ5, huyện Đ3, Ph xuống xe mang theo giỏ đựng công cụ đi bộ tìm nhà dân có tài sản để đột nhập, còn S đợi bên ngoài. Khi đi đến phía sau trụ sở UBND xã Đ5, Ph thấy bên trong mở điện sáng, không có người canh gác nên đi vào tìm phòng có tài sản để đột nhập. Khi đến trước phòng “BAN TÀI CHÍNH”, Ph thấy trong phòng có hai máy vi tính và một két sắt hiệu “HONGKONG” để sát góc tường. Ph dùng xà beng cạy gẫy khoen khóa cửa rồi đột nhập vào trong phòng lấy 01 máy tính xách tay hiệu Dell core i5 màu đen mang ra sân bóng phía sau trụ sở UBND cất giấu trong bụi cây rồi quay lại chỗ để két sắt. Thấy phía dưới két có gắn bánh xe, Ph đẩy két ra ngoài hành lang, lật nằm xuống (cửa quay lên), dùng xà beng, tuýp sắt đục, cạy phá làm bung cửa két. Ph lấy toàn bộ số tiền trong két rồi đi ra chỗ giấu máy tính, Ph cầm lên nhưng không mang theo do sợ bị người khác phát hiện nên vứt lại trong bụi cây gần đó rồi gọi điện cho S đến chở về nhà nghỉ “H”. Tại đây, Ph đem toàn bộ số tiền trộm được trong két sắt của UBND xã Đ5 ra đếm được 70.000.000 đ (bảy mươi triệu đồng) và một số tiền lẻ (không đếm, khoảng 500.000đ). Ph chia cho S 30.000.000đ và số tiền lẻ, Ph giữ 40.000.000đ rồi nhờ S chở đến khu vực ngã ba “S” thuộc xã Đ6, huyện B để đón xe về Đắk Nông, còn S về Đồng Nai. Trên đường về, Ph ngồi trên xe vứt bỏ hết dụng cụ vào bụi cỏ ven đường. Số tiền trên Ph dùng đánh đề với đối tượng H và tiêu xài hết. Ngày 23/9/2018, Ph mang nhẫn vàng đã mua tại tiệm vàng “N” đến tiệm vàng “V” thuộc xã Q, huyện Đ1, tỉnh Đắk Nông do anh Nguyễn Đăng V (SN 1974, HKTT: Thôn 2, xã Q, huyện Đ1, tỉnh Đắk Nông) làm chủ cầm được 5.500.000 đ (năm triệu năm trăm nghìn đồng) tiêu xài hết.

Đối với S, sau khi tiêu xài hết số tiền 30.000.000đ, S bán chiếc xe mô tô hiệu Jupiter của S cho một người tên Kh (không xác định được nhân thân lai lịch) tại thành phố B, tỉnh Đồng Nai được 4.000.000đ và tiêu xài hết.

Ngày 30/8/2018, anh Mông Tr Th (SN 1996, HKTT: ấp S, xã Đ5, huyện Đ3, tỉnh Bình Phước) là dân quân thường trực tại xã Đ5 đi chặt tre tại khu vực phía sau trụ sở UBND xã Đ5 phát hiện chiếc máy tính xách tay hiệu Dell core i5 màu đen trong bụi tre nên giao cho ông Ngô Việt V - Chủ tịch UBND xã Đ5 để giao nộp cho cơ quan Công an phục vụ công tác điều tra.

- Kết luận định giá tài sản số 132 ngày 04/9/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đ3, tỉnh Bình Phước xác định:

+ Điện thoại hiệu Samsung J7 Prime có giá trị 4.400.000đ.

+ Điện thoại hiệu Samsung A6 có giá trị mới là 5.490.000đ.

Tổng giá trị là: 9.890.000đ (chín triệu tám trăm chín mươi ngàn đồng).

- Kết luận định giá tài sản số 134 ngày 06/9/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đ3, tỉnh Bình Phước kết luận: Máy tính xách tay, nhãn hiệu Dell Core i5 có giá trị là 6.956.000đ.

- Kết luận định giá tài sản số 169 ngày 05/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đ3, tỉnh Bình Phước xác định:

+ 01 nhẫn bằng vàng hình bông hoa 04 cánh không đính đá, trọng lượng 2,95 chỉ, loại vàng 24K, có giá trị là 10.413.500đ.

+ 01 sợi dây chuyền bằng vàng, dạng xích xoắn, trọng lượng 4,51 chỉ, loại vàng 18K có giá trị là 12.009.228đ.

+ 01 mặt dây chuyền bằng vàng, hình bông hoa có đính đá hình tròn màu trắng, có trọng lượng vàng 1,5 chỉ, loại vàng 18K, có giá trị là 3.994.200đđ. + 01 lắc tay bằng vàng, hình bông hoa trên mặt có đính nhiều hạt đá màu xanh, có trọng lượng vàng 5,23 chỉ, loại vàng 18K, có giá trị là 13.926.444đ.

+ 01 nhẫn đeo tay bằng vàng, có mặt hình con cóc, có trọng lượng vàng 1,14 chỉ, loại vàng 18K, có giá trị là 3.035.592đ.

+ 01 nhẫn đeo tay bằng vàng, có mặt hình đá màu trắng hình thoi xung quanh được đính nhiều hạt đá nhỏ màu trắng, có trọng lượng vàng 1,2 chỉ, loại vàng 18K, có giá trị là 3.196.360đ.

Tổng giá trị tài sản là: 46.574.324đ (Bốn mươi sáu triệu năm trăm bảy mươi bốn ngàn ba trăm hai mươi đồng).

- Kết luận định giá tài sản số 947 ngày 06/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Bình Phước xác định:

+ Đối với két sắt hiệu „BAUCHETR” của gia đình ông Trần Văn Tr, ông Tr đã bán phế liệu, Cơ quan CSĐT không thu hồi được nên không có cơ sở xác định chất lượng còn lại theo thực tế để làm căn cứ xác định giá trị của tài sản cần giám định và két sắt này đã hết thời gian khấu hao theo quy định của Bộ Tài chính nên không có cơ sở định giá.

+ Đối với két sắt hiệu „HONGKONG” của UBND xã Đ5 có giá trị là 2.749.824đ.

- Kết luận định giá tài sản số 1216 ngày 28/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Bình Phước xác định: Két sắt hiệu „HONGKONG” của UBND xã Đ5 có giá trị thiệt hại sau khi xảy ra vụ án là 1.849.824đ.

Tổng giá trị mà các bị cáo chiếm đoạt của bị hại là 649.920.324 đồng.

Quá trình điều tra, Trần Công Ph và Lê Trường S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 22/2019/HSST ngày 14 tháng 8 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước, quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Trần Công Ph, Lê Trường S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; các Điều 53, 17, 38, 50 và 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Lê Trường S 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/9/2018.

Bản án sơ thẩm còn xử phạt bị cáo Trần Công Ph 15 (mười lăm) năm tù, quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, việc thi hành án, án phí và quyền kháng cáo vụ án theo luật định phạt.

Ngày 20/8/2019 bị cáo Lê Trường S có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về yêu cầu kháng cáo của bị cáo như sau:

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo S cung cấp tình tiết mới chứng minh việc đã chấp hành xong bản án phúc thẩm số 165/2011/HSPT ngày 30/6/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng tình tiết tăng nặng theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Về yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt: bị cáo có nhân thân xấu, phạm tội thuộc trường hợp nhiều lần. Vì vậy đề nghị không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt mà cấp sơ thẩm đã tuyên.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo có quan điểm như sau:

Trong vụ án này, bị cáo S có vai trò thứ yếu, bị cáo chỉ là người giúp sức và không trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo cung cấp tình tiết mới chứng minh việc đã thi hành xong bản án trước đây. Vì vậy, bị cáo phạm tội không thuộc trường hợp tái phạm. Mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là quá nặng đối với bị cáo. Từ đó đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:

[1]. Trong vụ án này, đã có đủ cơ sở xác định bị cáo Lê Trường S được bị cáo Trần Công Ph rủ rê, đã đồng ý cùng tham gia thực hiện 02 lần hành vi trộm cắp tài sản của những người bị hại. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt của những người bị hại được xác định là 649.920.324 đồng. Chính vì vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử hai bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Hành vi phạm tội của bị cáo Lê Trường S cùng bị cáo Trần Công Ph là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của những người bị hại, gây bất bình trong dư luận.

[2]. Đối với vai trò cũng như tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Lê Trường S xét thấy: Bị cáo được Ph rủ rê. Hai lần phạm tội bị cáo đều là người điều khiển xe để đưa, đón Ph đến và rời khỏi các địa điểm phạm tội. Bị cáo được xác định là đồng phạm với vai trò giúp sức. Tại cấp sơ thẩm, bị cáo được xác định lần phạm tội này thuộc trường hợp “tái phạm” do chưa có căn cứ chứng minh đã thi hành xong toàn bộ bản án trước đó của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Lê Trường S đã thể hiện sự thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, đồng thời cung cấp tình tiết mới, đó là xác nhận của Cơ quan Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Đồng Nai xác định bị cáo Lê Trường S đã thi hành xong các khoản án phí và trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị hại. Ngày 09/02/2018, Cơ quan Thi hành án dân sự huyện C đã ban hành Quyết định về việc đình chỉ thi hành án số 14/QĐ-CC.THADS – là thời điểm trước khi bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án này.

Như vậy, ở trường hợp này có đủ căn cứ để xác định bị cáo Lê Trường S phạm tội không thuộc trường hợp “tái phạm”. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, vì vậy cần phải áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo S.

[3]. Từ những nhận định trên cho thấy, do bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm, giúp sức; có 02 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, vì vậy Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xem xét, cân nhắc giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo S.

[4]. Do kháng cáo được chấp nhận, vì vậy bị cáo không phải chịu án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị cáo Lê Trường S, sửa một phần Bản án sơ thẩm số 22/2019/HS-ST ngày 14/8/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước về hình phạt đối với bị cáo Lê Trường S.

Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố Lê Trường S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về áp dụng điều luật và hình phạt:

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; các Điều 53, 17, 38, 50 và 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Lê Trường S 10 (mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/9/2018.

Tiếp tục giam giữ bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án.

3. Bị cáo không phải chịu án phí phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 813/2019/HS-PT ngày 05/12/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:813/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về