Bản án 81/2020/HSST ngày 26/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 81/2020/HSST NGÀY 26/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 88/2020/TLST-HS ngày 13 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 82/ 2020/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đèo Văn T - Sinh năm 1971; Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Bản N, xã C, huyện S, Sơn La; Nghề nghiệp:Trồng trọt; Trình độ văn hoá: Không; Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Chức vụ, đảng phái: Không; Con ông Đèo Văn L, con bà Đèo Thị C; Có vợ là Tòng Thị T và có 03 con (lớn nhất sinh năm 1992, nhỏ nhất sinh năm 2013); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 04/5/2020 cho đến nay. Có mặt.

* Người có quyền lợi liên quan: Chị Tòng Thị T - Sinh năm 1975; Địa chỉ: Bản Nà Hỳ, xã Chiềng Cang, huyện Sông Mã, Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 05 phút ngày 04/5/2020 Tổ công tác Công an xã Chiềng Cang, huyện Sông Mã làm nhiệm vụ tại bản Tre phát hiện Đèo Văn T điều khiển xe mô tô hướng từ bản Pá Nó về bản Tre, có biểu hiện nghi vấn, Tổ công tác đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra, đã thu giữ được 01 gói nilon màu xanh bên trong có chất bột màu trắng (T khai nhận là Heroine). Tổ công tác tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang thu giữ gói nilon màu xanh chứa chất bột màu trắng, 01 điện thoại di động và 01 xe mô tô.

Ngày 05/5/2020 Hội đồng bóc mở niêm phong tiến hành cân tịnh và trích mẫu giám định, kết quả: Số bột màu trắng thu giữ của Thiên có khối lượng là 0,10 gam đã sử dụng hết để làm mẫu gửi giám định ký hiệu T.

Tại kết luận giám định số 728 ngày 08/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,10 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,10 gam; Loại Heroine”.

Quá trình điều tra Đèo Văn T khai nhận: Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 04/5/2020 T đem theo số tiền 50.000đ, một mình điều khiển xe mô tô từ nhà ở bản Nà Hỳ, xã Chiềng Cang đi lên bản Pá Nó, xã Chiềng Cang để tìm xin cành mận hậu về ghép và mua ma túy để sử dụng. Khoảng hơn 07 giờ cùng ngày T đến đầu bản Pá Nó thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông đang đi bộ ngoài đường, T dừng xe hỏi mua được 01 gói Heroine với số tiền 50.000đ, sau đó tiếp tục đi tìm cành cây mận hậu. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày T điều khiển xe mô tô đi về, khi về đến bản Tre, xã Chiềng Cang thì gặp Tổ công tác Công an xã Chiềng Cang làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang.

Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 86/CT-VKS ngày 11/8/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Đèo Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS xử phạt Đèo Văn Thiên từ 16 - 22 tháng tù. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại và vật chứng liên quan; trả lại cho bị cáo điện thoại di động; trả lại cho chị Tòng Thị T chiếc xe mô tô. Miễn hình phạt bổ xung cho bị cáo. Buộc bị cáo chịu án phí hình sự. Tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo và người liên quan.

Tại phiên tòa khi được nói lời sau cùng bị cáo thừa nhận hành vi của mình đã vi phạm pháp luật, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về các chứng cứ xác định tội danh: Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 13giờ05, ngày 04/5/2020 bắt quả tang Đèo Văn T có hành vi cất giấu một gói chất bột màu trắng.

- Vật chứng bị thu giữ gồm 0,10 gam chất bột màu trắng; Kết luận giám định số 728 ngày 08/5/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận số chất bột đã thu của T.

- Lời khai nhận tội của bị cáo về thời gian, địa điểm, diễn biến việc thực hiện tội phạm.

Tại phiên toà bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi, vẫn giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án và hoàn toàn nhất trí với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 04/5/2020 T mua được 01 gói Heroine với số tiền 50.000đ của một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết tại bản Pá Nó, xã Chiềng Cang, huyện Sông với mục đích để sử dụng. Trên đường về đến bản Tre, xã Chiềng Cang, huyện Sông Mã thì bị Tổ công tác Công an xã Chiềng Cang, huyện Sông Mã kiểm tra, phát hiện bắt quả tang. Khối lượng ma tuý bị thu giữ là 0,10gam, loại chất Heroine. Như vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là đảm bảo theo quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, bị cáo nhận thức được việc tàng trữ chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng đã bất chấp pháp luật cố tình thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, gây bức xúc trong xã hội.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải - Là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Cần căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, khối lượng ma tuý bị cáo tàng trữ, tình tiết giảm nhẹ để quyết định một mức hình phạt phù hợp, nhằm trừng phạt, cải tạo, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật, răn đe, phòng ngừa và thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.

[5] Về hình phạt bổ sung: Cơ quan điều tra đã làm rõ gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với số ma tuý và vật chứng liên quan cần tịch thu tiêu huỷ. Đối với điện thoại di động do không liên quan đến vụ án, cần trả lại cho bị cáo. Đối với chiếc xe mô tô, xác định là tài sản chung của gia đình, khi bị cáo làm phương tiện thực hiện tội phạm vợ, con bị cáo không biết, nên cần trả lại cho vợ bị cáo quản lý, sử dụng.

[7] Về vấn đề khác liên quan đến vụ án: Đối với người đàn ông bị cáo khai đã bán ma tuý cho bị cáo, quá trình điều tra do bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, nên không có căn cứ để xác minh điều tra mở rộng vụ án.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Tuyên bố: Bị cáo Đèo Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Đèo Văn T 14 (mươi bốn) tháng tù - Thời hạn thụ hình tính từ ngày 04/5/2020.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 0,05gam Heroine.

+ 01 phong bì.

(các vật chứng được đựng trong phong bì màu trắng của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, giấy dán niêm phong có mã số 000465).

+ 01 mảnh nilon màu xanh.

+ 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.

(các vật chứng được đựng trong phong bì niêm phong, giấy dán niêm phong có mã số 028053).

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiêu FPT.

- Trả lại cho chị Tòng Thị T là người có quyền lợi liên quan 01 chiếc xe mô tô hiệu HONDA, biển kiểm soát 26K4 - 2603.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/8/2020 giữa Công an huyện Sông Mã và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Các Điều 21, 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Buộc bị cáo chịu 200.000đ ( hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 26/8/2020./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 81/2020/HSST ngày 26/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:81/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về