Bản án 81/2020/HS-ST ngày 26/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG KHÁNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 81/2020/HS-ST NGÀY 26/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 82/2020/TLST-HS ngày 07 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 94/2020/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

L (Tên gọi khác: Bờm), sinh năm 1998, tại Đồng Nai. Nơi cư trú: Tổ 4, khu phố 2, phường PB, thành phố K, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông C (đã chết) và bà L, sinh năm 1965. Bị cáo là con thứ 3 trong gia đình có 04 anh chị em. Vợ, con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân:

Ngày 29/5/2015, bị Toà án nhân dân thị xã Long Khánh (nay là thành phố Long Khánh) bị xử phạt 02 năm tù về tội: “Cướp tài sản”. Ngày 01/12/2016 được đặc xá theo Giấy chứng nhận đặc xá số 81/GCNĐX.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 19/02/2020 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Anh V, sinh năm 1990. Địa chỉ: Khu phố 2, phường PB, thành phố K, tỉnh Đồng Nai. Vắng mặt.

2/ Anh H, sinh năm 1989. Địa chỉ: Khu phố 2, phường PB, thành phố K, tỉnh Đồng Nai. Vắng mặt.

- Người chứng kiến: Anh HH, sinh năm 1993. Địa chỉ: Khu phố CT, phường XT, thành phố K, tỉnh Đồng Nai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

L là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy từ khoảng đầu năm 2019. Vào khoảng 09 giờ ngày 19/02/2020, L có nhu cầu sử dụng ma túy nên đã gọi điện thoại cho đối tượng tên Toàn (không rõ lai lịch) để xin ma túy. Toàn đồng ý và hẹn L đến khu vực lô cao su thuộc Khu phố CT, phường XT, thành phố K, tỉnh Đồng Nai để đưa ma túy. Đến khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi nhận ma túy từ Toàn thì L cầm gói ma túy trên tay và điều khiển xe mô tô mang biển số 60U2 – 8704 chạy trên quốc lộ 1A, thuộc Khu phố CT, phường XT, thành phố K, tỉnh Đồng Nai để về nhà, thì bị công an phường Xuân Tân, phối hợp với Công an thành phố Long Khánh kiểm tra phát hiện và thu giữ 01 gói nilon chứa các hạt tinh thể màu trắng tên tay của L. L khai là ma túy đá nên Cơ quan công an đã tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang và niêm phong tang vật theo quy định.

Tại bản kết luận giám định số 332/KLGĐ-PC09 ngày 27 tháng 02 năm 2020, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,3586 gam, loại: Methamphetaamine (bút lục số 30).

Tại Bản kết luật định giá tài sản số 66/HĐĐGTSTTTHS, ngày 26/5/2020, của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Long Khánh, kết luận: 01 điện thoại di động hiệu samsung Duos, IMEI 357932063585767, điện thoại đã qua sử dụng (thời điểm tháng 5/2020) có giá trị: 190.000 đồng (bút lục số 38).

Vật chứng thu giữ:

01 bịch nilon bên trong có chứa nhiều hạt tinh thể màu trắng dạng rắn.

01 điện thoại di động hiệu Samsung Duos màu vàng đen cùng sim số 0329384570.

01 xe mô tô hiệu Novou màu đỏ - đen, biển kiểm soát 60U2 – 8704.

Đối với chiếc xe mô tô hiệu Novou màu đỏ biển kiểm soát 60U2 – 8704, qua điều tra xác định chiếc xe này L mượn của H, sinh năm 1989, trú tại khu phố 2, phường PB, thành phố K, tỉnh Đồng Nai. H khai nhận xe này là của anh V, sinh năm 1990, trú tại khu phố 2, phường PB, thành phố K, anh V đã cho H mượn xe để làm phương tiện đi lại. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Khánh đã trả lại xe trên cho anh V. Nhận lại tài sản anh V không có yêu cầu gì khác.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Khánh, L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản cáo trạng số: 73/CT-VKSLK ngày 01/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh, truy tố bị cáo L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã truy tố.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người chứng kiến vắng mặt nên không có lời trình bày, Hội đồng xét xử công bố lời khai của họ tại cơ quan điều tra.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh giữ quyền công tố tại phiên tòa, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS năm 2015.

Xử phạt bị cáo L từ 01 năm đến 01 năm 6 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Chiếc xe mô tô hiệu Novou màu đỏ biển kiểm soát 60U2 – 8704 là tài sản của anh V, anh V đã nhận lại xe và không có yêu cầu gì.

Vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu sung công 01 điện thoại di động hiệu Samsung Duos, IMEI 357932063585767, số sim 0329384570; tịch thu tiêu hủy 01 phong bì được niêm phong mẫu vật sau giám định số 332/PC09-GĐMT ngày 27/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo L nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Khánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, kết luận giám định, vật chứng thu được, cùng tài liệu có trong hồ sơ, thể hiện: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 19/02/2020, trên quốc lộ 1A, thuộc khu phố CT, phường XT, thành phố K, tỉnh Đồng Nai, Công an phường Xuân Tân, phối hợp với Công an thành phố Long Khánh kiểm tra phát hiện và thu giữ tên tay của L 0,3586 gam ma túy, loại Methamphetamine. Hành vi cất giữ trái phép 0,3586 gam ma túy, loại Methamphetamine của L với mục đích để sử dụng đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh truy tố L về tội danh và điều luật trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Tính chất của vụ án là nghiêm trọng. Ma túy là chất gây nghiện vô cùng nguy hiểm, không chỉ làm suy kiệt sức lao động; làm hạn chế hoặc mất đi khả năng điều khiển hành vi của người sử dụng, mà còn là nguyên nhân nảy sinh nhiều hành vi phạm tội khác. Do đó, cần có mức hình phạt đủ nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời có tác dụng chung trong việc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và hình phạt đối với bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để đảm bảo tính khoan H của pháp luật.

Tuy nhiên, xét thấy bị cáo có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện ma túy và đã từng bị xét xử về tội “Cướp tài sản” nên cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người biết tuân thủ pháp luật.

Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử không phạt tiền bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Anh V đã nhận lại tài sản là chiếc xe mô tô hiệu Novou màu đỏ biển kiểm soát 60U2 – 8704 và không có yêu cầu gì khác nên không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Duos, IMEI 357932063585767, số sim 0329384570 là phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước; tịch thu tiêu hủy 01 phong bì được niêm phong mẫu vật sau giám định số 332/PC09-GĐMT ngày 27/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

8 Xét ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về phần tội danh, điều khoản truy tố, hình phạt, xử lý vật chứng là có căn cứ và phù hợp nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1/ Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố: Bị cáo L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo L 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/02/2020.

2/ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung Duos, IMEI 357932063585767, số sim 0329384570. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì được niêm phong mẫu vật sau giám định số 332/PC09- GĐMT ngày 27/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

(Vật chứng do Chi cục thi hành án dân sự thành phố Long Khánh đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/7/2020).

3/ Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326 của UBTVQH 14 ngày 30 /12 /2016 về án phí, lệ phí. Buộc bị cáo L phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4/ Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 81/2020/HS-ST ngày 26/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:81/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Khánh - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về