Bản án 81/2020/HSST ngày 15/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 81/2020/HSST NGÀY 15/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 15 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 94/2020/TLST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/2020/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2020, đối với bị cáo:

Lê Văn V, sinh ngày 06 tháng 7 năm 1978; tại Quảng Ngãi.

Nơi cư trú: Thôn B, xã T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Nông; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê X, sinh năm 1949 (chết) và bà Nguyễn Thị Ch, sinh năm 1951; có vợ là Lê Thị Xuân A, sinh năm 1981 (đã ly hôn), có 01 con Lê Minh T, sinh năm 2011 (đang ở với mẹ); tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 30/11/2020 bị Công an huyện S, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản theo Quyết định số 139/QĐ-XPHC bằng hình thức phạt tiền là 2.000.000 đồng; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06/8/2020 đến ngày 15/8/2020 thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp bảo lĩnh và cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo tại ngoại; có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1. Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1995 Nơi cư trú: Đường G, thị trấn C, huyện H, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt.

2. Chị Trần Thị Thu X, sinh năm 1985 mặt. Nơi cư trú: tổ 8, phường C, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt.

3. Bà Đặng Thị Hải A, sinh năm 1951 Nơi cư trú: Tổ 5 (tổ 17 cũ), phường Đ, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Phạm Minh D, sinh năm 1978 Nơi cư trú: Số 8 Q, phường P, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt.

2. Anh Vũ Đình L, sinh năm 1984. Nơi cư trú: Tổ 1, phường Đ, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt.

3. Anh Phạm Văn S, sinh năm 1990 Nơi cư trú: 274 L, phường T, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt.

4. Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1992. Nơi cư trú: Thôn T, xã T, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt.

- Người làm chứng:

Anh Bùi Tấn L, sinh năm 1988; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 06/8/2020, bị cáo Lê Văn V, sinh ngày 06/7/1978, đi từ nhà ở xóm 4, thôn B, xã T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi bằng xe máy biển kiểm soát 76HB – 6123 đến siêu thị Big C gần cầu Bầu Giang, thuộc tổ 7, phường C, thành phố Q để trộm cắp tài sản. Sau khi đi vào siêu thị, bị cáo V có đi qua một số quầy hàng, khi đến quầy trái cây thì thấy có 01 điện thoại di động Iphone 7 màu hồng của chị Nguyễn Thị T (sinh năm 1995, trú tại xã C, huyện C, tỉnh Bình Định) đang sạc pin, không có ai trông coi nên bị cáo đã đến rút dây sạc và lấy điện thoại bỏ vào túi đi ra. Sau đó đi ăn sáng rồi đến cửa hàng Thế giới di động gần vòng xoay công viên Ba Tơ thuộc phường P, thành phố Q nhờ nhân viên ở đây tháo sim để khỏi bị phát hiện. Khi bị cáo V cầm điện thoại ra hết cổng Thế giới di động thì bị Công an phường C mời về làm việc.

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo V khai nhận còn thực hiện 04 vụ trộm cắp khác: Vụ 1: Khoảng đầu tháng 7/2020, bị cáo V điều khiển xe máy biển kiểm soát 76HB – 6123 của mình đến cửa hàng tạp hóa trên đường T, thành phố Q (không nhớ rõ địa chỉ) để mua nước. Tại đây, bị cáo V phát hiện 01 điện thoại di động hiệu Nokia để trên kệ hàng, bị cáo lấy trộm sau đó bán cho cửa hàng điện thoại di động Thu Sương trên đường P do bà Nguyễn Thị Thu S, sinh năm 1975 trú tại phường L, thành phố Q làm chủ với số tiền 100.000 đồng.

Vụ 2: Ngày 27/7/2020, bị cáo V điều khiển xe máy biển kiểm soát 76HB – 6123 đến chùa Thiên Bút trên đường T, thành phố Q. Tại đây, bị cáo đã lấy trộm 01 điện thoại di động Samsung A51, màu xanh của chị Trần Thị Thu X, sinh năm 1995 trú tại xã S, huyện H, tỉnh Bình Thuận đang để dưới nền nhà. Sau đó dùng tên “Hòa”đem cầm cố điện thoại với số tiền 3.000.000 đồng tại tiệm Cầm đồ Minh Dũng, địa chỉ 08 T, thành phố Q do Phạm Minh D, sinh năm 1978 trú tại phường P, thành phố Q làm chủ.

Vụ 3: Ngày 31/7/2020, bị cáo V điều khiển xe máy biển kiểm soát 76HB – 6123 đến quầy bán báo tại địa chỉ: 215 Đ, thành phố Q của bà Đặng Thị Hải A, sinh năm 1951 trú tại phường Đ, thành phố Q lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu Samsung A10, màu đen của bà A, sau đó đem cầm cố tại tiệm cầm đồ Minh, địa chỉ: 274 L, thành phố Q do Phạm Văn S, sinh năm 1990, trú tại phường T, thành phố Q làm chủ với số tiền 1.000.000 đồng.

Vụ 4: Ngày 03/8/2020, bị cáo V điều khiển xe máy biển kiểm soát 76HB – 6123 đến chùa Phúc Lợi ở đường T, thành phố Q, lấy trộm 01 điện thoại hiệu Sam sung Note 10+, màu đen để trên bàn, sau đó đem đến tiệm cầm đồ Lâm Vũ, ở địa chỉ 29B P, thành phố Q, do ông Vũ Đình L làm chủ cầm cố với số tiền 1.000.000 đồng. Khi cầm điện thoại, bị cáo dùng tên “Lê Quang Hòa” nhằm che giấu tên thật của mình.

Tuy nhiên, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã dùng các biện pháp nghiệp vụ để làm rõ hành vi trộm cắp trong vụ thứ nhất vào đầu tháng 7 năm 2020 và vụ thứ 4 vào ngày 03/8/2020 nhưng vẫn chưa tìm được bị hại trong 02 lần trộm cắp này nên chưa đủ căn cứ để xử lý bị cáo trong 02 lần trộm này. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tách ra và sẽ tiếp tục tiến hành xác minh để điều tra, làm rõ khi nào có căn cứ sẽ đề nghị xử lý sau là có cơ sở.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 37/KL-HĐĐGTTTHS ngày 10/8/2020 và Bản kết luận định giá tài sản số 38/KL-HĐĐGTTTHS ngày 13/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Quảng Ngãi kết luận:

- 01 Điện thoại di động hiệu Samsung A10 màu đen trị giá 550.000 đồng.

- 01 Điện thoại di động hiệu Samsung A51 màu xanh trị giá 5.000.000 đồng.

- 01 Điện thoại di động hiệu Iphone 7, màu hồng trị giá: 3.500.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị cáo V trộm cắp vào các ngày 27/7/2020, 31/7/2020 và ngày 06/8/2020 là 9.050.000đồng (Chín triệu không trăm năm mươi nghìn đồng).

Bản cáo trạng số 77/CT-VKS ngày 16 -10 - 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi đã truy tố bị cáo Lê Văn V về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Lê Văn V từ 12 đến 15 tháng tù.

- Về trách nhiệm dân sự:

Các bị hại đã nhận lại tài sản bị mất, bị cáo đã khắc phục trả lại số tiền đã cầm cố cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, không ai có yêu cầu gì nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về xử lý vật chứng:

Đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước đối với xe máy biển kiểm soát 76HB – 6123 chủ sở hữu là Lê Văn V và trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Nokia màu xanh đen (đã qua sử dụng).

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị hại chị Nguyễn Thị T, chị Trần Thị Thu X và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm: Ông Phạm Văn S, ông Phạm Minh D, ông Vũ Đình L và ông Nguyễn Văn N mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Tuy nhiên những người nêu trên đã có lời khai trong hồ sơ vụ án, việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến quá trình xét xử vụ án. Do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được việc trộm cắp tài sản của người khác là hành vi vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo vẫn bất chấp và xem thường pháp luật. Tại phiên tòa bị cáo Lê Văn V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của các bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Với bản tính lười lao động nhưng muốn có tiền tiêu xài nên trong vào các ngày 27/7/2020, ngày 31/7/2020 và ngày 06/8/2020 bị cáo Lê Văn V lợi dụng sự sở hở của các chủ sở hữu tài sản đã lén lút thực hiện 03 vụ trộm cắp tài sản điện thoại di động trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt được là 9.050.000 đồng (Chín triệu không trăm năm mươi nghìn đồng). Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Do đó, Cáo trạng số 77/CT-VKS ngày 16 -10 - 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi truy tố đối với bị cáo Lê Văn V là đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn làm ảnh hưởng xấu đến trật tự công cộng, sau khi thực hiện xong hành vi trộm cắp, bị cáo đem tài sản trộm cắp được cầm cố cho các tiệm cầm đồ và lấy tên người khác để khỏi bị phát hiện gây khó khăn cho công tác điều tra và truy tìm vật chứng. Nên hành vi của bị cáo phải được xử lý nghiêm, có mức hình phạt thích đáng và cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ điều kiện để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung loại tội phạm này.

[5] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[5.1] Nhân thân: Trong giai đoạn xét xử bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và bị Công an huyện S, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản theo Quyết định số 139/QĐ-XPHC ngày 30/11/2020; bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

[5.2] Tình tiết tăng nặng: Bị cáo Lê Văn V đã thực hiện 03 lần trộm cắp tài sản, trong đó có 02 lần trộm cắp có giá trị tài sản chiếm đoạt là 3.500.000 đồng và 5.000.000 đồng thỏa mãn dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản nên được xem là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội 02 lần trở lên theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5.3] Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Lê Văn V đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, khắc phục hậu quả trả lại giá trị tài sản cầm cố cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo có ông nội là Lê C, bác ruột là Lê Hùng V được Nhà nước công nhận là Liệt sĩ, có bà nội là Nguyễn Thị N được Nhà nước phong tặng danh hiệu bà mẹ Việt Nam anh hùng, có cha là Lê X và mẹ là Nguyễn Thị Ch được hưởng chính sách như thương binh nên được xem là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[6] Đối với hành vi trộm cắp vào đầu tháng 7/2020, tại cửa hàng tạp hóa trên đường T, thành phố Q và ngày 03/8/2020 tại chùa Phúc Lợi ở đường H, thành phố Q. Mặc dù bị cáo khai nhận do bị cáo thực hiện, tuy nhiên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Thông báo truy tìm chủ sở hữu nhưng chưa xác định được bị hại trong 02 lần trộm này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra chưa có cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo V về 02 lần trộm này. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tách ra để tiếp tục điều tra, xác minh khi nào có căn cứ sẽ đề nghị xử lý sau là có cơ sở.

[7 ] Đối với các đối tượng liên quan:

Ông Phạm Văn S, ông Phạm Minh D, ông Vũ Đình L là những người đã cầm cố tài sản của bị cáo V nhưng không biết tài sản bị cáo đem cầm cố là tài sản phạm tội mà có, đồng thời các ông Phạm Văn S, Phạm Minh D và Vũ Đình L cũng không hứa hẹn trước đối với bị cáo do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ để xử lý đối với các ông S, D và L với vai trò đồng phạm trong vụ trộm cắp với bị cáo V và tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là có cơ sở.

[8] Đối với ông Nguyễn Văn N là chủ tiệm cầm đồ Minh, bị cáo đã cầm cố chiếc điện thoại Nokia màu xanh đen (đã qua sử dụng) của bị cáo cho tiệm cầm đồ với số tiền 1.000.000 đồng, trong giai đoạn điều tra bị cáo đã trả lại cho ông N số tiền 1.000.000 đồng, ông N không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[9] Về trách nhiệm dân sự:

Các bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã nhận lại số tiền bị cáo cầm cố và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[10] Về xử lý vật chứng:

+ Đối với xe máy biển kiểm soát 76HB – 6123 chủ sở hữu là Lê Văn V, bị cáo V đã sử dụng xe để làm phương tiện phạm tội trộm cắp tài sản nên tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

+ Đối với 01 điện thoại di động Nokia màu xanh đen (đã qua sử dụng) bị cáo đã cầm cố cho tiệm cầm đồ Minh, chủ tiệm cầm đồ là ông Nguyễn Văn N để lấy số tiền 1.000.000 đồng tiêu xài, Cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ để chứng minh chiếc điện thoại này do bị cáo trộm cắp mà có, đây là tài sản của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội, bị cáo yêu cầu được nhận lại tài sản nên tuyên trả lại cho bị cáo.

[11] Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[12] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[13] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Văn V phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lê Văn V 01 (Một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án, được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 06-8-2020 đến ngày 15-8-2020.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 1, điểm a khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước xe máy biển kiểm soát 76HB – 6123 (đã qua sử dụng) chủ sở hữu là Lê Văn V.

- Trả lại cho bị cáo Lê Văn V 01 (Một) điện thoại di động Nokia màu xanh đen (đã qua sử dụng).

Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 30/11/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Lê Văn V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 81/2020/HSST ngày 15/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:81/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Quảng Ngãi - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về