Bản án 81/2020/HNGĐ-ST ngày 30/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 81/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP VỀ NUÔI CON 

Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 317/2020/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 10 năm 2020 về “L hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 82/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 61/2020/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đào Thị M, sinh năm 1993. Nơi đăng ký HKTT: Thôn 4, xã D, huyện K, thành phố Hải Phòng. Hiện trú tại: Thôn Quán Bơ, xã D, huyện K, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Cao Văn T, sinh năm 1991. Địa chỉ cư trú: Thôn 4, xã D, huyện K, thành phố Hải Phòng; vắng mặt lần thứ hai - Đã được triệu tập hợp lệ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin L hôn ngày 08 tháng 10 năm 2020 và bản tự khai ngày 21 tháng 10 năm 2020, chị Đào Thị M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị tự nguyện chung sống với anh Cao Văn T từ đầu năm 2012, được hai bên gia đình đồng ý tổ chức hỏi cưới theo phong tục, đến ngày 16 tháng 9 năm 2013 mới làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã D, huyện K, thành phố Hải Phòng. Tháng 9 năm 2019, anh chị phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, anh T cho rằng chị mải chơi, không biết cách làm ăn và nghi ngờ chị không chung thủy, dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau, xúc phạm nhau. Mâu thuẫn đã được gia đình khuyên bảo, hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả, nên chị phải bỏ về nhà mẹ đẻ ở từ tháng 4 năm 2020 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị xin L hôn anh T.

Về con chung: Anh chị có 02 con là Cao Khánh L, sinh ngày 20 tháng 11 năm 2013 đang do anh T trực tiếp nuôi dưỡng và Cao Tùng D, sinh ngày 05 tháng 5 năm 2018 đang do chị M trực tiếp nuôi dưỡng. Khi L hôn, chị nhận tiếp tục nuôi dưỡng cháu D đến khi đủ 18 tuổi để cháu L cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, anh chị thỏa thuận tự giao nhận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản và công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Cao Văn T vắng mặt tại phiên tòa, theo lời trình bày và yêu cầu của chị M; Tòa án đã xác minh, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án đối với anh T nhưng anh T không đến Tòa án để trình bày lời khai; không tham gia hòa giải; từ chối khai báo, vắng mặt không có lý do chính đáng. Sau đó Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho ông Cao Văn Q là bố đẻ anh T để giao lại cho anh T nhưng anh T vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, không có lý do.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ theo quy định tại các điều 70, 71, 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn không đến Tòa án tham gia tố tụng là không thực hiện quyền, không chấp hành nghĩa vụ theo quy định tại các điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Anh T là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đào Thị M, cho chị Đào Thị M được L hôn anh Cao Văn T.

Về con chung: Giao cháu Cao Khánh L, sinh ngày 20 tháng 11 năm 2013 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Giao cháu Cao Tùng D, sinh ngày 05 tháng 5 năm 2018 cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị M trình bày anh chị tự thỏa thuận nên không xem xét.

Về tài sản, công nợ: Chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Về án phí: Chị M phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

- Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật, thẩm quyền giải quyết: Đây là “Tranh chấp về L hôn và nuôi con” theo khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Anh T là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự: Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh T.

- Về nội dung:

[2] Về quan hệ hôn nhân: Qua lời khai của đương sự và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, thông tin do UBND xã D, huyện K, thành phố Hải Phòng cung cấp về quan hệ hôn nhân giữa chị Đào Thị M và anh Cao Văn T có đăng ký kết hôn năm 2013, anh chị chung sống hạnh phúc được khoảng 07 năm. Đến tháng 9 năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, không chia sẻ những khó khăn về kinh tế, anh T nghi ngờ chị M không chung thủy, dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau, xúc phạm nhau. Chị M bỏ về nhà mẹ đẻ ở từ tháng 4 năm 2020, đến nay không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Do đó, đủ cơ sở xác định tình trạng hôn nhân của anh chị thực sự trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài. Nay chị M xin L hôn anh T; quan điểm của UBND xã D đề nghị Tòa án giải quyết cho chị M được L hôn anh T. Như vậy, cần xử cho chị M được L hôn anh T là phù hợp với các điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình và ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

[3] Về con chung: Xét nguyện vọng của chị M nhận trực tiếp nuôi dưỡng cháu Cao Tùng D, sinh ngày 05 tháng 5 năm 2018 đến khi đủ 18 tuổi; để cháu Cao Khánh L, sinh ngày 20 tháng 11 năm 2013 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi. Căn cứ vào thông tin do UBND xã D cung cấp, chị M có chỗ ở, việc làm ổn định, thu nhập bình quân mỗi tháng 10.000.000 đồng, đủ điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc cháu D. Căn cứ vào thông tin do UBND xã D và bà Phạm Thị Đông là mẹ đẻ anh T cung cấp, anh T có chỗ ở ổn định, thu nhập bình quân mỗi tháng 15.000.000 đồng, khi chị M bỏ về nhà mẹ đẻ ở, cháu L được anh T nuôi dưỡng đảm bảo, đầy đủ điều kiện cho cháu sinh hoạt, học tập và chỗ ở ổn định, bên cạnh đó còn có sự giúp đỡ của bà Đông và nguyện vọng của cháu L muốn ở với bố sau khi bố mẹ L hôn. Do đó cần giao cháu D cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi; giao cháu L cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi là phù hợp quy định tại các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị M trình bày anh chị thỏa thuận tự giao nhận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[4] Về tài sản, công nợ: Chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí: Chị M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; căn cứ vào các điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đào Thị M được L hôn anh Cao Văn T.

2. Về con chung: Giao cháu Cao Khánh L, sinh ngày 20 tháng 11 năm 2013 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Giao cháu Cao Tùng D, sinh ngày 05 tháng 5 năm 2018 cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về cấp dưỡng nuôi con, hai bên đương sự thỏa thuận tự giao nhận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi L hôn, chị M và anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị M phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu ký hiệu AA/2016, số 0009316 ngày 21 tháng 10 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K. Chị M đã chịu đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Chị M có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 81/2020/HNGĐ-ST ngày 30/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:81/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Thuỵ - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về