Bản án 81/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 81/2019/HS-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 27 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 80/2019/TLST-HS, ngày 15 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Quách Thị V, sinh ngày 14 tháng 4 năm 1977 tại huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú : Thôn P, xã V, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 07/12; dân tộc : Nùng; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Quách Văn S, đã chết và bà Phùng Thị A, sinh năm 1940; bị cáo có chồng là Cổ Văn S và có 02 con, lớn sinh năm 2000, nhỏ sinh năm 2006; Tiền án: có 02 tiền án: Tại bản án số 27/2012/HS-ST ngày 11/6/2012 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Bắc Giang xử phạt 10 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 tháng về tội Đánh bạc, đã nộp án phí và chấp hành hình phạt bổ sung ngày 21/7/2017; Tại bản án số 38/2017/HS-ST ngày 11/10/2017 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Bắc Giang xử phạt 06 tháng tù về tội Đánh bạc, chấp hành xong phần hình phạt ngày 21/6/2018, chưa nộp án phí và hình phạt bổ sung; Tiền sự: Không; nhân thân: Tại bản án số 38/2019/HS-ST ngày 18/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Bắc Giang xử phạt 03 năm tù về tội Đánh bạc; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/9/2019 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hữu Lũng, có mặt.

2. Dương Văn H; sinh ngày 05 tháng 10 năm 1986 tại huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú : Thôn C, xã Đ, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Kim T, sinh năm 1957 và bà Hứa Thị H, sinh năm 1961; bị cáo có vợ là Quách Thị H, sinh năm 1990 và có 01 con, sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính lần nào; bị tạm giữ từ ngày 12/9/2019 đến ngày 20/9/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay, có mặt.

3. Hứa Văn Q; sinh ngày 05 tháng 10 năm 1991 tại huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú : Thôn C, xã Đ, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hứa Văn P, sinh năm 1968 và bà Trần Thị B, sinh năm 1967; bị cáo có vợ là Đỗ Thị O, sinh năm 1995 và có 02 con, lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính lần nào; bị tạm giữ từ ngày 12/9/2019 đến ngày 20/9/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay, có mặt.

4. Hứa Văn T; sinh ngày 13 tháng 01 năm 1983 tại huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú : Thôn C, xã Đ, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 08/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hứa Xuân T, sinh năm 1959 và bà Hứa Thị A, sinh năm 1962; bị cáo có vợ là Nông Thị Th, sinh năm 1981 và có 02, lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: chưa bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính lần nào; bị tạm giữ từ ngày 12/9/2019 đến ngày 20/9/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay, có mặt.

5. Nông Thị V; sinh ngày 23 tháng 01 năm 1980 tại huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú : Thôn L, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 03/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nông Đức V, sinh năm 1958 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1956; bị cáo có chồng tên Sầm Văn N, sinh năm 1977 và 02 con, lớn sinh năm 1998, nhỏ sinh năm 2001; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 30/5/2017 bị Công an huyện Hữu Lũng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc; bị tạm giữ từ ngày 12/9/2019 đến ngày 20/9/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay, có mặt.

6. Vy Đức P; sinh ngày 25 tháng 02 năm 1989 tại huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú : Thôn C, xã Đ, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vy Thanh B, sinh năm 1952và bà Hứa Thị L, sinh năm 1958; bị cáo có vợ tên Uông Thị T, sinh năm 1991 và 03 con, lớn nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: chưa bị xử lý kỷ luật xử phạt hành chính lần nào, bị tạm giữ từ ngày 12/9/2019 đến ngày 20/9/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi noi cư trú đến nay, có mặt.

7. Vy Thanh L; sinh ngày 17 tháng 04 năm 1987 tại huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú : Thôn C, xã Đ, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vy Văn D đã chết và bà: Chu Thị L, sinh năm 1963; bị cáo có vợ tên Chu Thi Đ, sinh năm 1990 và có 02 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: chưa bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính lần nào; bị tạm giữ từ ngày 12/9/2019 đến ngày 20/9/2019 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay, có mặt.

8. Lăng Văn V; sinh ngày 20 tháng 05 năm 1990 tại huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú : Thôn C, xã Đ, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm mộng; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lăng Văn L, sinh năm 1960 và bà Hoàng Thị P, sinh năm 1962; bị cáo có vợ tên Chu Thị C, sinh năm 1993 và 02 con, lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: chưa bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính lần nào; bị tạm giữ từ ngày 12/9/2019 đến ngày 20/9/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay, có mặt.

9. Hoàng Văn T; sinh ngày 26 tháng 10 năm 1989 tại huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú : Thôn C, xã Đ, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm mộng; trình độ học vấn: 03/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn K đã chết và bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1966; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: chưa bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính lần nào; bị tạm giữ từ ngày 12/9/2019 đến ngày 20/9/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay, có mặt.

10. Vy Đức D; sinh ngày 16 tháng 02 năm 1986 tại huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú : Thôn C, xã Đ, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm mộng; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Nùng Giới tính: Nam; tôn giáo: Không Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vy Thanh B, sinh năm 1952 và bà Hứa Thị L, sinh năm 1958; bị cáo có vợ tên Đặng Thị H và 02 con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: chưa bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính lần nào ; bị tạm giữ từ ngày 12/9/2019 đến ngày 20/9/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay, có mặt.

11. Chu Văn T; sinh ngày 09 tháng 01 năm 1976 tại huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú : Thôn C, xã Đ, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm mộng; trình độ học vấn: 03/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Chu Văn S, sinh năm 1944 và bà Vy Thị H, đã chết; bị cáo có vợ tên Lý Thị L, sinh năm 1976 và 02 con, lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: chưa bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính lần nào ; bị tạm giữ từ ngày 12/9/2019 đến ngày 20/9/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay, có mặt.

12. Vy Văn G; sinh ngày 14 tháng 11 năm 1984 tại huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú : Thôn V, xã Đ, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vy Xuân T đã chết và bà Lăng Thị S đã chết; bị cáo có vợ tên Hứa Thị T, sinh năm 1984 và 02 con, lớn sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: chưa bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính lần nào ; bị tạm giữ từ ngày 12/9/2019 đến ngày 20/9/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay, có mặt.

13. Hoàng Văn H; sinh ngày 23 tháng 01 năm 1989 tại huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không Quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn T, sinh năm 1969 và bà Hà Thị T, sinh năm 1970; bị cáo có vợ tên Lăng Thị N, sinh năm 1989 và 02 con, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: chưa bị xử lý kỷ luật , xử phạt hành chính lần nào ; bị tạm giữ từ ngày 12/9/2019 đến ngày 20/9/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay, có mặt.

14. Lý Văn T; sinh ngày 16 tháng 7 năm 1989 tại huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú : Thôn C, xã Đ, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm mộng; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lý Văn C, sinh năm 1968 và bà Hà Thị H, sinh năm 1970; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: chưa bị xử lý kỷ luật , xử phạt hành chính lần nào ; bị tạm giữ từ ngày 12/9/2019 đến ngày 20/9/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay, có mặt.

15. Hứa Văn T; sinh ngày 02 tháng 5 năm 1990 tại huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú : Thôn C, xã Đ, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm mộng; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hứa Văn P, sinh năm 1968 và bà Trần Thị B, sinh năm 1967; bị cáo có vợ tên Lương Thị X , sinh năm 1995 và 02 con, lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; nhân T: chưa bị xử lý kỷ luật , xử phạt hành chính lần nào ; bị tạm giữ từ ngày 12/9/2019 đến ngày 20/9/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay, có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Hoàng Văn S, sinh năm 1963, địa chỉ: Thôn P, xã V, huyện H, tỉnh Lạng Sơn, vắng mặt.

2. Anh Trần Văn G, sinh năm 1974, địa chỉ: Thôn Q, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn, vắng mặt.

3. Anh Chu Văn M, sinh năm 1986, địa chỉ: Lữ đoàn *, Binh chủng pháo binh, xã Đ, huyện H, tỉnh Bắc Giang, vắng mặt.

4. Anh Nguyễn Quang M, sinh năm 1971, địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang, vắng mặt.

5. Anh Hứa Xuân T, sinh năm 1959, địa chỉ: Thôn C, xã Đ, huyện H, tỉnh Lạng Sơn, vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Vi Văn L, sinh năm 1977, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 11/9/2019, sau khi ăn cơm tại nhà Vi Văn L, Dương Văn H rủ Hứa Văn Q, Vy Thanh L, Vy Đức P, Lăng Văn V và Vi Văn L đánh bạc dưới hình thức xóc đĩa, mọi người đều đồng ý, khi đó có Hứa Văn T nhưng sau T đi về nhà trước. Do nảy sinh ý định đánh bạc tại nhà T nên H, P, L, Q, L đi về nhà T, còn V quay về nhà. Khi đến nhà T, do lo sợ việc đánh bạc ảnh hưởng đến mình nên T bảo H vào lán nhà ông Hoàng Văn S ở trong rừng thuộc Thôn C, xã Đ, huyện H, tỉnh Lạng Sơn để đánh bạc. T lấy bình ắc quy, bóng điện, dao, bút lông, bát, đĩa cho vào túi nilon rồi đưa cho H cầm, cài chiếc chiếu nhựa vào giá để đồ của xe mô tô biển kiểm soát 12H1-056.25 rồi điều khiển xe mô tô chở H; L điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12H1-193.82 của mình để chở P vào nơi đánh bạc trước. Cùng lúc đó, Q điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 98N5-0215 chở L sang nhà T để đánh bạc, đến cổng nhà T, Q gọi điện cho H thì được H chỉ đến nơi mọi người đang đánh bạc, lúc này Hoàng Văn T đang đi chơi cùng Vy Đức D đi qua nghe được và biết Q và mọi người đang đi đánh bạc nên T rủ D đi đánh bạc cùng, D đồng ý rồi cùng T đi theo sau Q đến nơi đánh bạc.

Khoảng hơn 21 giờ cùng ngày, T, H, Q, P, L, D và T đến địa điểm đánh bạc. Hứa Văn T lấy bóng điện và bình ắc quy mang từ nhà đi, đấu điện và treo bóng điện lên xà nhà để thắp sáng rồi lấy chiếu trải xuống nền nhà, sau đó T quay về nhà lấy nước vào để bán cho những người đánh bạc. Trong lúc đó, Dương Văn H dùng bút lông và giấy trắng lấy từ nhà T để kẻ “bảng vị” còn Hứa Văn Q nhặt một thanh tre tại nơi đánh bạc dùng dao chẻ mỏng rồi dùng bút lông mực đen tô một mặt của thanh tre, chặt làm 04 quân vị có cùng kích thước. Chuẩn bị dụng cụ xong, Q, H, P, L, D và T cùng đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức xóc đĩa, Q là người cầm cái, H là người cầm bảng vị, L và T không tham gia đánh bạc mà chỉ ngồi xem. Khi đang đánh bạc có thêm Lăng Văn V, Chu Văn T, Vy Văn G, Hoàng Văn H, Hứa Văn T, Lý Văn T, Quách Thị V và Nông Thị V đến cùng tham gia đánh bạc. Trong những người đánh bạc thì P, L, V , T còn đánh bạc bằng bảng vị. Đến 00 giờ 10 phút ngày 12/9/2019, khi đang đánh bạc thì bị Công an huyện Hữu Lũng bắt quả tang.

Trong khi đánh bạc, L, T, G, T mỗi người bỏ ra 80.000 đồng và P, H, Q, V, T, H mỗi người bỏ ra 50.000 đồng từ tiền đánh bạc đưa cho T được tổng 620.000 đồng. Hứa Văn T không trực tiếp tham gia đánh bạc nhưng do là người chuẩn bị các dụng cụ phục vụ việc đánh bạc nên có vai trò đồng phạm giúp sức.

Thu giữ tại chiều bạc số tiền 4.300.000 đồng; 01 bát sứ (bát con) đường kính 11,2 cm; 01 đĩa sứ đường kính 17,5 cm; 04 quân vị bằng tre hình chữ nhật, kích thước dài 1,5 cm, rộng 1 cm, một mặt đen, một mặt trắng; 01 bảng vị bằng giấy kích thước rộng 25 cm, dài 29,5 cm, trên bảng vị có kẻ 04 ô, trên các ô có vẽ các biểu tượng hình tròn bằng mực; 01 con dao bằng kim loại màu đen dài 33 cm, phần lưỡi dao dài 21,5 cm, bản dao rộng nhất 7,8 cm, phần chuôi dao bằng kim loại hình trụ tròn dài 11,5 cm; 01 bút lông màu đen nhãn hiệu TL, đã qua sử dụng; 01 chiếu nhựa có hoa văn đỏ, kích thước dài 1,5 m, rộng 1,2 m; 01 hình ắc quy xe mô tô nhãn hiệu GS màu đen 12V; 01 bóng điện nhãn hiệu Rạng Đông, có gắn dây điện. Ngoài ra còn thu giữ trên người các bị cáo gồm : Thu của Hứa Văn Q 3.930.000đ, 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG Galaxy J3, 01 xe mô tô HONDA Dream, biển kiểm soát 98N5-0215. Thu của Lăng Văn V 1.000.000đ, 01 điện thoại di động nhãn hiệu M1, 01 xe mô tô Yamaha Exciter, biển kiểm soát 98D1-461.46. Thu của Nông Thị V 2.450.000 đồng, 01 điện thoại di động OPPO màu đen, 01 xe mô tô HONDA Wave S, biển kiểm soát 12H1-1087. Thu của Chu Văn T 1.200.000đ, 01 đèn pin. Thu của Hoàng Văn H 1.570.000đ, 01 điện thoại di động SAMSUNG J7, 01 xe mô tô Yamaha Sirius, biển kiểm soát 12H1-181.08. Thu của Lý Văn T 920.000đ, 01 điện thoại di động Galaxy J5, 01 xe mô tô HONDA Wave RSX màu đỏ - đen, biển kiểm soát 12H1-6645. Thu của Vy Văn G 01 điện thoại di động NOKIA 106 màu đen. Thu của Quách Thị V 4.250.000đ; 01 điện thoại di động Nokia 1280 màu xanh. Thu của Vy Thanh L 30.000đ, 01 điện thoại di động SAMSUNG J2 màu đen, 01 xe mô tô HONDA Wave RSX, biển kiểm soát 12H1-193.82. Thu của Hứa Văn T 01 điện thoại di động OPPO A5S. Thu của Vy Đức D 740.000đ, 01 điện thoại di động SAMSUNG Galaxy J5 màu bạc. Thu của Vy Đức P 30.000đ. Thu của Dương Văn H 01 điện thoại di động SAMSUNG Galaxy A5. Thu của Hoàng Văn T 470.000đ, 01 điện thoại di động SAMSUNG Galaxy J8, 01 xe mô tô Yamaha Sirius, biển kiểm soát 12H1-035.09. Thu của Hứa Văn T 11.910.000đ, 01 điện thoại di động OPPO A71, 01 xe mô tô HONDA Dream, biển kiểm soát 12H1-056.25. Thu của Vi Văn L 01 điện thoại di động OPPO A3S.

Quá trình điều tra đã làm rõ tổng số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc trái phép là 14.540.000đ, gồm: 4.300.000đ thu trên chiếu bạc, 900.000đ của Hứa Văn Q, 1.000.000đ của Lăng Văn V; 2.450.000đ của Nông Thị V; 1.200.000đ của Chu Văn T; 1.100.000đ của Hoàng Văn H; 920.000đ của Lý Văn T; 1.250.000đ của Quách Thị V; 30.000đ của Vy Thanh L; 30.000đ của Vy Đức P; 740.000đ của Vy Đức D; 620.000đ của Hứa Văn T.

Tại bản kết luận giám định số 302/KLGĐ-PC09 ngày 15/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Toàn bộ số tiền gửi đi giám định đều là tiền Vịêt Nam thật.

Tại bản cáo trạng số 83/CT-VKSHL-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đã quyết định truy tố bị cáo Quách Thị V về tội đánh bạc quy định tại điểm d khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự; truy tố các bị cáo Dương Văn H, Hứa Văn Q, Hứa Văn T, Nông Thị V, Vy Đức P, Vy Thanh L, Lăng Văn V, Hoàng Văn T, Vy Đức D, Chu Văn T, Vy Văn G, Hoàng Văn H, Lý Văn T và Hứa Văn T về tội đánh bạc quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Các bị cáo Quách Thị V , Dương Văn H, Hứa Văn Q, Hứa Văn T, Nông Thị V, Vy Đức P, Vy Thanh L, Lăng Văn V, Hoàng Văn T, Vy Đức D, Chu Văn T, Vy Văn G, Hoàng Văn H, Lý Văn T và Hứa Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Quách Thị V phạm tội đánh bạc theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự và tuyên bố các bị cáo Dương Văn H, Hứa Văn Q, Hứa Văn T, Nông Thị V, Vy Đức P, Vy Thanh L, Lăng Văn V, Hoàng Văn T, Vy Đức D, Chu Văn T, Vy Văn G, Hoàng Văn H, Lý Văn T và Hứa Văn T phạm tội đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Đề nghị:

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 58 của Bộ luật Hình sự 2015 đối với bị cáo Quách Thị V. Xử phạt bị cáo Quách Thị V từ 03 (ba) năm đến 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 12/9/2019.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điêu 38; Điều 50; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật Hình sự 2015 đối với các bị cáo Dương Văn H, Hứa Văn Q, Hứa Văn T, Nông Thị V, Vy Đức P, Vy Thanh L, Lăng Văn V, Hoàng Văn T, Vy Đức D, Chu Văn T, Vy Văn G, Hoàng Văn H, Lý Văn T và Hứa Văn T;

Xử phạt các bị cáo Dương Văn H và Hứa Văn Q mỗi bị cáo từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 (ba mươi sáu) đến 48 (bốn mươi tám) tháng.

Xử phạt các bị cáo Hứa Văn T và Nông Thị V mỗi bị cáo từ 15 (mười lăm) tháng đền 18 (mười tám) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 (ba mươi) tháng đến 36 (ba mươi sáu) tháng.

Xử phạt các bị cáo Vy Đức P, Vy Thanh L, Lăng Văn V, Hoàng Văn T, Vy Đức D mỗi bị cáo từ 09 (chín) tháng đến 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai mươi bốn) tháng.

Xử phạt các bị cáo Chu Văn T, Vy Văn G, Hoàng Văn H, Lý Văn T, Hứa Văn T mỗi bị cáo từ 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách tù 12 (mười hai) tháng đến 18 (mười tám) tháng.

Giao các bị cáo được hưởng án treo cho Ủy ban nhân dân xã nơi các bị cáo cư trú và gia đình giám sát trong thời gian thử thách.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với tất cả các bị cáo do các bị cáo không có tài sản riêng, không có thu nhập ổn định.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ các điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điểm a, b, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu sung ngân sách Nhà nước gồm : số tiền 14.540.000đ là tiền thu trên chiếu bạc và tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc; 09 điện thoại di động thu của các bị cáo Hứa Văn Q, Dương Văn H, Lăng Văn V, Hoàng Văn H, Vy Văn G, Lý Văn T, Vy Thanh L, Quách Thị V, Hứa Văn T là công cụ các bị cáo sử dụng liên lạc để thực hiện hành vi đánh bạc.

Đối với 01 bát sứ, 01 đĩa sứ, 04 quân vị bằng tre, 01 bảng vị bằng giấy không có giá trị sử dụng và 01 chiếu nhựa có hoa văn đỏ, 01 bình ắc quy, 01 bóng điện nhãn hiệu Rạng Đông có gắn dây điện, 01 con dao bằng kim loại màu đen, 01 bút lông màu đen nhãn hiệu TL giá trị sử dụng không lớn nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 3.030.000đ thu của bị cáo Hứa Văn Q; 470.000đ thu của bị cáo Hoàng Văn H; 3.000.000đ thu của bị cáo Quách Thị V; 470.000đ thu của bị cáo Hoàng Văn T; 11,290.000đ thu của bị cáo Hứa Văn T và 01 đèn pin nhựa màu tím thu của bị cáo Chu Văn T, xác định không liên quan đến vụ án nên đề nghị trả lại cho các bị cáo.

Tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Trong lời nói sau cùng, các bị cáo đều ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của bản T và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hữu Lũng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng. Các quyết định, hành vi tố tụng đã thực hiện là hợp pháp. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có khiếu nại đối với quyết định, hành vi của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng.

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của các bị cáo đã khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, lời khai người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở khẳng định: Ngày 11/9/2019 tại lán nhà ông Hoàng Văn S ở trong rừng thuộc Thôn C, xã Đ, huyện H, tỉnh Lạng Sơn, các bị cáo Dương Văn H, Hứa Văn Q, Hứa Văn T, Vy Đức P, Vy Thanh L, Lăng Văn V, Hoàng Văn T, Vy Đức D, Chu Văn T, Vy Văn G, Hoàng Văn H, Lý Văn T, Hứa Văn T, Nông Thị V, Quách Thị V đã cùng nhau đánh bạc, sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức chơi sóc đĩa, đến 00 giờ 10 phút ngày 12/9/2019 thì bị Công an huyện Hữu Lũng bắt quả tang, thu trên chiếu bạc số tiền 4.300.000đ và thu trên người các bị cáo số tiền 10.240.000đ là tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc, như vậy tổng số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 14.540.000đ. Bị cáo Hứa Văn T tuy không trực tiếp tham gia đánh bạc, không được rủ rê lôi kéo các bị cáo khác tham gia đánh bạc, nhưng Hứa Văn T đã cùng các bị cáo khác chuẩn bị dụng cụ đánh bạc và được các bị cáo tự nguyện cho số tiền là 620.000, do vậy hành vi của bị cáo Hứa Văn T đã phạm tội đánh bạc với vai trò đồng phạm giúp sức. Với hành vi nêu trên của các bị cáo đủ cơ sở để khẳng định các bị cáo đã phạm tội đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự; riêng bị cáo Quách Thị V do trước đó bị cáo đã có 02 tiền án về tội “Đánh bạc” chưa được xóa án tích, nên lần phạm tội này của bị cáo là tái phạm nguy hiểm, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm đã thực hiện theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Như vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quy định của Nhà nước về trật tự công cộng, ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an tại địa P, hành vi đánh bạc là một trong những tệ nạn bị xã hội lên án. Đối với từng cá nhân, gia đình thì việc đánh bạc làm hao tốn tiền của, lãng phí thời gian và có thể là nguyên nhân gây ra các loại tội phạm hoặc những hậu quả tiêu cực khác. Các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, hiểu rõ được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm thu lợi bất chính.

[4] Các bị cáo cùng thực hiện hành vi phạm tội với vai trò đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn. Bị cáo Dương Văn H là người có vai trò khởi xướng rủ các bị cáo khác đánh bạc, bị cáo thực hiện hành vi tích cực, chuẩn bị bảng vị và cầm bảng vị khi đánh bạc; còn bị cáo Hứa Văn Q thực hiện hành vi cũng tích cực, chuẩn bị quân vị, khi đánh bạc bị cáo là người cầm cái và tham gia đánh bạc ngay từ ban đầu, nên cả hai bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự nặng hơn so với các bị cáo khác; bị cáo Hứa Văn T khi biết các bị cáo có ý định đánh bạc tại nhà mình, sợ bị ảnh hưởng nên bị cáo đã không cho đánh, nhưng bị cáo lại là người giúp các bị cáo chuẩn bị dụng cụ đánh bạc, chỉ chỗ cho mọi người đến đó đánh bạc và được nhận một số tiền là 620.000đ tiền thu lời bất chính từ các bị cáo khác tự nguyện đưa; các bị cáo còn lại đều tự chủ động tham gia đánh bạc mà không bị ai lôi kéo. Đây là một trong những căn cứ để Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định mức hình phạt đối với từng bị cáo.

[5] Tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của các bị cáo: Về tình tiết giảm nhẹ : Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhận thức rõ về hành vi phạm tội, do vậy các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015. Bị cáo Quách Thị V còn có mẹ đẻ là Phùng Thị A được nhà nước tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhất nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điêu 51 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo Dương Văn H, Hứa Văn Q, Hứa Văn T, Vy Đức P, Vy Thanh L, Lăng Văn V, Hoàng Văn T, Vy Đức D, Chu Văn T, Vy Văn G, Hoàng Văn H, Lý Văn T, Hứa Văn T và Nông Thị V phạm tội lần này là lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo không có.

[6] Về nhân thân: Các bị cáo Dương Văn H, Hứa Văn Q, Hứa Văn T, Vy Đức P, Vy Thanh L, Lăng Văn V, Hoàng Văn T, Vy Đức D, Chu Văn T, Vy Văn G, Hoàng Văn H, Lý Văn T, Hứa Văn T đều là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo Nông Thị V, tháng 5/2017 bị Công an huyện Hữu Lũng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc, tuy đã được xóa tiền sự nhưng thể hiện bị cáo là người có nhân thân xấu. Bị cáo Quách Thị V đã có hai tiền án vào năm 2012 và 2017 đều về tội “đánh bạc”, ngoài ra trong tháng 9/2019 khi bị cáo đang được tại ngoại để chờ Tòa án nhân dân Huyện Y, tỉnh Bắc Giang xét xử cũng về hành vi đánh bạc, bị cáo vẫn tiếp tục lao vào con đường phạm tội, tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc tại huyện Hữu Lũng, thể hiện bị cáo là người có nhân thân xấu, thiếu ý thức rèn luyện, coi thường pháp luật.

[7] Trên cơ sở xem xét, đánh giá tính chất, mức độ, hành vi phạm tội, vai trò của từng bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo Quách Thị V ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài để giáo dục bị cáo và đảm bảo tính răn đe phòng ngừa chung. Các bị cáo Dương Văn H, Hứa Văn Q, Hứa Văn T, Nông Thi V, Vy Đức P, Vy Thanh L, Lăng Văn V, Hoàng Văn T, Vy Đức D, Chu Văn T, Vy Văn G, Hoàng Văn H, Lý Văn T và Hứa Văn T có nhiều tình tiết giảm nhẹ phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình sinh sống tại địa phương chấp hành tốt chính sách pháp luật của Nhà nước nên không cần thiết cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội cũng đủ để giáo dục các bị cáo và đảm bảo tính răn đe phòng ngừa chung đồng thời thể hiện được chính sách khoan hồng của Nhà nước.

[8] Về hình phạt bổ sung là phạt tiền: Xét các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định và không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[9] Xét lời luận tội và mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với các bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[10] Đối với Vi Văn L, quá trình điều tra đa làm rõ Vi Văn L không tham gia đánh bạc nên không đề cập xử lý trách nhiệm, Hội đồng xét xử không xem xét.

[11] Đối với ông Hoàng Văn S, do không biết các bị cáo sử dụng lán bỏ hoang trên đồi của gia đình để đánh bạc, không có đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[12] Về xử lý vật chứng: Đối với tổng số tiền 32.800.000đ đã thu giữ, trong đó có 14.540.000đ là tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc nên tịch thu sung ngân sách Nhà nước; còn lại 18.260.000đ thu của các bị cáo gồm: 3.030.000đ thu của bị cáo Hứa Văn Q; 470.000đ thu của bị cáo Hoàng Văn H; 3.000.000đ thu của bị cáo Quách Thị V; 470.000đ thu của bị cáo Hoàng Văn T 11.290.000đ thu của bị cáo Hứa Văn T, xác định không liên quan đến vụ án nên trả lại cho các bị cáo. Đối với 09 chiếc điện thoại di động thu của các bị cáo Hứa Văn Q, Dương Văn H, Lăng Văn V, Hoàng Văn H, Vy Văn G, Lý Văn T, Vy Thanh L, Quách Thị V, Hứa Văn T là công cụ các bị cáo sử dụng liên lạc thực hiện hành vi đánh bạc nên tịch thu sung ngân sách Nhà nước. Đối với 01 bát sứ, 01 đĩa sứ, 04 quân vị bằng tre, 01 bảng vị bằng giấy, 01 chiếu nhựa có hoa văn đỏ, 01 bình ắc quy, 01 bóng điện nhãn hiệu Rạng Đông có gắn dây điện, 01 con dao bằng kim loại màu đen, 01 bút lông màu đen nhãn hiệu TL là dụng cụ các bị cáo sử dụng để đánh bạc và hiện không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 chiếc đèn pin nhựa màu tím thu của Chu Văn T, xác định không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo Chu Văn T.

[13] Đối với các xe mô tô đã thu giữ khi bắt quả tang , quá trình điều tra xác định không liên quan đến vụ án, cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp, nay Hội đồng xét xử không xem xét.

[14] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[15] Các bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Quách Thị V.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với các bị cáo Dương Văn H, Hứa Văn Q, Hứa Văn T, Nông Thị V, Vy Đức P, Vy Thanh L, Lăng Văn V, Hoàng Văn T, Vy Đức D, Chu Văn T, Vy Văn G, Hoàng Văn H, Lý Văn T và Hứa Văn T.

Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điểm a, b, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Quách Thị V, Dương Văn H, Hứa Văn Q, Hứa Văn T, Nông Thị V, Vy Đức P, Vy Thanh L, Lăng Văn V, Hoàng Văn T, Vy Đức D, Chu Văn T, Vy Văn G, Hoàng Văn H, Lý Văn T và Hứa Văn T phạm tội “Đánh bạc”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Quách Thị V 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 12/9/2019.

Xử phạt các bị cáo Dương Văn H, Hứa Văn Q mỗi bị cáo 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 (ba mươi sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Xử phạt các bị cáo Hứa Văn T, Nông Thị V mỗi bị cáo 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 (ba mươi) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Xử phạt các bị cáo Vy Đức P, Vy Thanh L, Vy Đức Dương, Lăng Văn V, Hoàng Văn T mỗi bị cáo 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Xử phạt các bị cáo Chu Văn T, Vu Văn G, Hoàng Văn H, Lý Văn T, Hứa Văn T mỗi bị cáo 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao các bị cáo Dương Văn H, Hứa Văn Q, Hứa Văn T, Vy Đức P, Vy Thanh L, Lăng Văn V, Hoàng Văn T, Vy Đức D, Chu Văn T, Vy Văn G, Hoàng Văn H, Lý Văn T, Hứa Văn T cho Ủy ban nhân dân xã Đ và giao bị cáo Nông Thị V cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn giám sát giáo dục các bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã Đ và Ủy ban nhân dân xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn trong việc giám sát, giáo dục các bị cáo.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 14.540.000đ (mười bốn triệu năm trăm bốn mươi ngàn đồng) trong tổng số tiền 32.800.000đ đã thu giữ (đựng trong 13 phong bì thư đã niêm phong ), còn lại 18.260.000đ trả lại cho các bị cáo, cụ thể: Trả cho bị cáo Hứa Văn Q số tiền 3.030.000đ (ba triệu không trăm ba mươi ngàn đồng ); trả cho bị cáo Hoàng Văn H số tiền 470.000đ (bốn trăm bảy mươi ngàn đồng); trả cho bị cáo Quách Thị V số tiền 3.000.000đ (ba triệu đồng); trả cho bị cáo Hoàng Văn T số tiền 470.000đ (bốn trăm bảy mươi ngàn đồng); trả cho bị cáo Hứa Văn T số tiền 11.290.000đ (mười một triệu hai trăm chín mươi ngàn đồng).

Trả cho bị cáo Chu Văn T 01 chiếc đèn pin nhựa màu tím cũ đã qua sử dụng

Tịch thu hóa giá sung ngân sách Nhà nước 09 chiếc điện thoại di động thu của các bị cáo Hứa Văn Q, Dương Văn H, Lăng Văn V, Hoàng Văn H, Vy Văn G, Lý Văn T, Vy Thanh L, Quách Thị V, Hứa Văn T, gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG Galaxy J3 PRO màu bạc, số IMEI: 0157013; 01 điện thoại di động nhãn hiệu MI, màu đen đã qua sử dụng, số IMEI: 569045; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG J7 màu hồng, đã qua sử dụng, số IMEI: 2759501; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Galaxy J5 màu đen, đã qua sử dụng, số IMEI: 359051; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 106 màu đen, số seri: 476620, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu xanh, số seri 885923; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG J2 màu đen, số TMFJ- 4431401; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG Galaxy A5 màu vàng, số IMEI: 357558; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A71, màu hồng, số IMEI: 4482318, đã qua sử dụng.

Tịch thu tiêu hủy 01 bát sứ (bát con) đường kính 11,2 cm; 01 đĩa sứ đường kính 17,5 cm; 04 quân vị bằng tre hình chữ nhật, kích thước dài 1,5 cm, rộng 1 cm, một mặt đen, một mặt trắng; 01 bảng vị bằng giấy kích thước rộng 25 cm, dài 29,5 cm, trên bảng vị có kẻ 04 ô, trên các ô có vẽ các biểu tượng hình tròn bằng mực; 01 con dao bằng kim loại màu đen dài 33 cm, phần lưỡi dao dài 21.5 cm, bản dao rộng nhất 7,8 cm, phần chuôi dao bằng kim loại hình trụ tròn dài 11.5 cm; 01 bút lông màu đen nhãn hiệu TL đã qua sử dụng; 01 chiếu nhựa có hoa văn đỏ, kích thước dài 1,5 m, rộng 1,2 m; 01 bình ắc quy xe mô tô nhãn hiệu GS màu đen 12V; 01 bóng điện nhãn hiệu Rạng Đông, có gán dây điện.

(Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 21/11/2019).

4. Về án phí: Buộc các bị cáo Quách Thị V, Dương Văn H, Hứa Văn Q, Hứa Văn T, Nông Thị V, Vy Đức P, Vy Thanh L, Lăng Văn V, Hoàng Văn T, Vy Đức D, Chu Văn T, Vy Văn G, Hoàng Văn H, Lý Văn T và Hứa Văn T mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.

Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

273
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 81/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:81/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hữu Lũng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về