Bản án 81/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HOÀNG MAI, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 81/2018/HS-ST NGÀY 28/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 28 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 78/2018/TLST-HS ngày 07/11/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 196/2018/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Trương Văn C; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 30 tháng 4 năm 1990; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm 7, xã QL, thị xã H, tỉnh Nghệ An; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12; con ông Trương Văn M; sinh năm 1961 và con bà Trần Thị Ch; sinh năm 1961; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/8/2018 cho đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 16 giờ 20 phút ngày 06/8/2018, tại khu vực phía trước cổng quán Karaoke N thuộc khối TM, phường QT, thị xã Hoàng Mai, tổ công tác Công an thị xã Hoàng Mai phát hiện Trương Văn C có biểu hiện nghi vấn tàng trữ trái phép chất ma túy. Quá trình kiểm tra, Trương Văn C thả xuống phía dưới chân của mình 01 gói nhỏ làm bằng photylen, có viền xanh, bên trong chứa các hạt dạng tinh thể màu trắng (nghi là Methamphetamine). Tổ công tác đã lập biên bản phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và đưa đối tượng về trụ sở làm việc.

Quá trình điều tra, Trương Văn C khai nhận: Vào khoảng 15 giờ ngày 06/8/2018 C nhận được điện thoại của Nguyễn Viết L, sinh năm 1993, trú ở khối BM, phường QT, thị xã H gọi điện hỏi C có sử dụng ma túy không để góp tiền mua về sử dụng. C đồng ý và điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Angel, Biển kiểm soát 37H8- 6407 của bố là ông Trương Văn M từ nhà đến quán cà phê MC thuộc khối BM, phường QT gặp và đưa cho L 300.000 đồng. Sau đó Nguyễn Viết L điều khiển xe mô tô của C chở C vào thị trấn CG, huyện Q để mua ma túy. Khi đi đến khu vực trước Viện KSND huyện Q thì L dừng xe bảo C đứng đợi còn L điều khiển xe đi mua ma túy. Khoảng 30 phút sau, Nguyễn Viết L quay lại nói C lên xe để đi về. C biết L đã mua được ma túy nên trên đường đi về hỏi L “có chỗ nào sử dụng được ma túy” L nói về ngôi nhà bỏ hoang gần nhà L để cùng sử dụng. Khi cả hai đi đến trước quán karoke N thuộc khối TM, phường QT thì Nguyễn Viết L nói có việc vào gặp bạn một tí và đưa gói ma túy vừa mua được cho C cầm. Khi C đang đứng đợi trước quán Karaoke N thì bị tổ công tác Công an thị xã Hoàng Mai kiểm tra, bắt quả tang thu giữ 01 gói ma túy mà C và L vừa mua được.

Tại kết luận giám định số 1008/KL-PC54 ngày 10/8/2018 kết luận: Mẫu các hạt tinh thể màu trắng thu giữ của Trương Văn Công gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine). Các hạt tinh thể màu trắng thu giữ của Trương Văn Công có khối lượng là 0,67g (Không phẩy sáu mươi bảy gam).

Cáo trạng số 78/VKS-HS, ngày 05 tháng 11 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoàng Mai đã truy tố bị cáo Trương Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu. Đề nghị: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt Trương Văn C từ 12 tháng đến 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 gói ma túy được gói bằng bao photylen viền xanh, bên trong chứa 0,67g Methamphetamine sau khi lấy giám định còn lại 0,52 g Methamphetamine để trong phong bì bưu điện màu trắng viền xanh đỏ, được niêm phong theo quy định.

Trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mastel, IMEI: 353353091941910, có số thuê bao 0981276763 quá trình điều tra không chứng minh được chiếc điện thoại liên quan đến hành vi phạm tội. 01 chiếc xe mô tô hiệu Angel, Biển kiểm soát 37H8- 6407 của ông Trương Văn M, khi Trương Văn C sử dụng xe đi mua ma túy ông Mao không biết nên Cơ quan CSĐT đã trả lại cho ông M là đúng pháp luật.

Trong vụ án này, Trương Văn C khai đã góp tiền và cùng đi mua ma túy với Nguyễn Viết L, nhưng L không thừa nhận, quá trình điều tra không thu thập được chứng cứ khác chứng minh hành vi phạm tội của L do vậy không đủ cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Viết L.

Bị cáo hoàn toàn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Đề nghị được chiếu cố giảm nhẹ mức án để sớm được về với gia đình, làm người lương thiện.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét toàn diện đầy đủ chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thị xã Hoàng Mai, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoàng Mai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đó thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo Trương Văn C phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, phù hợp với thời gian, địa điểm, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở khẳng định: Vào lúc 16 giờ 20 phút ngày 06/8/2018, tại khu vực phía trước cổng quán Karaoke N thuộc khối TM, phường QT, thị xã H, Trương Văn C đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,67 gam Methamphetamine với mục đích sử dụng thì bị tổ công tác Công an thị xã Hoàng Mai phát hiện bắt quả tang.

Quá trình phạm tội, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được Methamphetamine là chất ma túy Nhà nước nghiêm cấm tàng trữ trái phép nhưng vẫn cố tình thực hiện.

Hành vi của bị cáo thực hiện nêu trên có đủ căn cứ kết luận Trương Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như Cáo trạng quy kết là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác và làm lây truyền các bệnh nguy hiểm cho con người, bị xã hội lên án. Bởi vậy, căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội cần thiết phải xử phạt nghiêm khắc bằng hình phạt tù, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện để răn đe giáo dục người phạm tội nói riêng cũng như phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, xử phạt bị cáo mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn về kinh tế nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[6] Trong vụ án này, Trương Văn C khai đã góp tiền và cùng đi mua ma túy với Nguyễn Viết L, nhưng L không thừa nhận, quá trình điều tra không thu thập được chứng cứ khác chứng minh hành vi phạm tội của L do vậy không đủ cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Viết L.

[7] Vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01(một) phong bì thư bưu điện kích thước 10x20cm được niêm phong dán kín theo quy định. Bên trong đựng vỏ bao niêm phong cũ và ma túy có khối lượng 0,52gam(không phẩy năm mươi hai gam). Trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mastel, IMEI: 35335091941910, có số thuê bao 0981276763 quá trình điều tra không chứng minh được chiếc điện thoại liên quan đến hành vi phạm tội. 01 chiếc xe mô tô hiệu Angel, Biển kiểm soát 37H8- 6407 của ông Trương Văn M, khi Trương Văn C sử dụng xe đi mua ma túy ông M không biết nên Cơ quan CSĐT đã trả lại cho ông M là đúng pháp luật.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trương Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt Trương Văn C 14(Mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 06/8/2018.

Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01(một) phong bì thư bưu điện kích thước 10x20cm được niêm phong dán kín theo quy định. Bên trong đựng vỏ bao niêm phong cũ và ma túy có khối lượng 0,52gam(không phẩy năm mươi hai gam) có tại biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thị xã Hoàng Mai và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hoàng Mai ngày 06/11/2018.

Trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mastel, IMEI: 353353091941910, có số thuê bao 0981276763 có tại biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thị xã Hoàng Mai và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hoàng Mai ngày 06/11/2018.

Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội; Buộc bị cáo Trương Văn C phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 81/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:81/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoàng Mai - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về