Bản án 81/2018/HS-ST ngày 01/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 81/2018/HS-ST NGÀY 01/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 80/2018/TLST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2018/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Lương Văn P, sinh ngày 04 tháng 3 năm 1997 tại thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Nơi cư trú: Số 6/17, đường N, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 11/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lương Văn C và bà Vũ Thị T; vợ, con: Chưa có; tiền án: Có 01 tiền án. Bản án số 29/2016HSST ngày 29/3/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 02 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; tiền sự: Không; nhân thân: Có án tích, chưa được xóa án tích; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21 tháng 6 năm 2018 đến nay, có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Chị Lương Thị H, sinh năm 1990.

Nơi cư trú: Số 1/11, đường L, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, có mặt.

Người chứng kiến: Hoàng Văn G, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lương Văn P là nhân viên của quán Bar K Club thuộc khu đô thị P, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Khoảng đầu tháng 6 năm 2018, trong khi phục vụ khách Lương Văn P nhặt được 05 viên ma túy tổng hợp thường gọi là “Kẹo”. Lương Văn P mang về nhà cất giữ để tự sử dụng. Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 21 tháng 6 năm 2018, Lương Văn P đang ở nhà có có người bạn mới quen (quen qua Facebook) tên là H1 nhà ở tỉnh Bắc Giang, gọi điện cho P nói là đang trên xe khách lên Lạng Sơn chơi và có hỏi P là có “Kẹo” không, nếu có thì mang theo để cùng nhau sử dụng. P nói có, và lấy 05 viên “Kẹo” giấu vào trong bao diêm rồi cho vào ví cầm tay. Sau đó, P đi đến nhà một người bạn ở ngõ 1 đường N1, thành phố L chơi. Ngồi chơi được mấy phút thì P gọi xe taxi hãng 767.767 để đi đến bến xe Phía Bắc, tỉnh Lạng Sơn đón bạn tên là H1. Sau khi xuống xe, P đi vào quán nước ở đoạn giao nhau giữa Quốc lộ 1A và đường rẽ vào xã T, huyện C, khi đi đang đứng chờ thì bị lực lượng Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an tỉnh Lạng Sơn tiến hành kiểm tra, lập biên bản bắt quả tang cùng tang vật.

Tang vật thu giữ gồm: 01 túi ni lon bên trong có 05 viên nén màu xanh;01 vỏ bao diêm có chữ “CHÙA THÀNH LẠNG SƠN”; 01 ví da màu đen cũnhãng hiệu JEEP BULUO; 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone đã qua sử dụng số IMEL: 355149886721349.

Tại Bản kết luận giám định số: 246/KL-PC54 ngày 22/6/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: 05 viên nén màu xanh thu giữ của Lương Văn P là hất ma túy MDMA, có tổng khối lượng 1,958 gam (đã trừ bì).

Tại bản cáo trạng số 81/CT-VKS, ngày 12 tháng 10 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Lương Văn P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015. 

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lương Văn P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù giam. Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo, 01 vỏ bao diêm, 01 ví da; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Iphone đã qua sử dụng có số IMEL: 355149886721349.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố và không có ý kiến tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng bị cáo không có đề nghị gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Lời khai nhận tội của bị cáo Lương Văn P tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lương Văn P đã tàng trữ trái phép chất ma túy có khối lượng 1,958 gam. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Lương Văn P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan.

 [2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội tại địa phương, là một trong các nguyên nhân gây phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và có đủ năng lực nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

 [3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 29 tháng 3 năm 2016 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 02 năm tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tại Bản án số 29/2016/HSST. Bị cáo chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, lần phạm tội này của bị cáo thuộc tái phạm. Nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

 [4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.

 [5] Về nhân thân: Bị cáo đã bị kết án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy’ chưa được xóa án tích.

 [6] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại cơ sở giam giữ mới đảm bảo tính nghiêm minh, răn đe đối với bị cáo cũng như phòng ngừa chung cho xã hội.

 [7] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không có tài sản, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

 [8] Về xử lý vật chứng: Đối với chất ma túy là MDMA là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy; đối với 01 (một) vỏ bao diêm, 01 ví da là vật không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy; đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone đã qua sử dụng số IMEL: 355149886721349 chị Lương Thị H cho Lương Văn P mượn để sử dụng vì vậy cần trả lại cho chị Lương Thị H.

 [9] Xét thấy, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc tại phiên toà hôm nay là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [10] Trong quá trình điều ra, truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều hợp pháp và không có khiếu nại, tố cáo.

 [11] Đối với người tên Hiếu Cơ quan điều tra không có cơ sở tiến hành xác minh do không có địa chỉ cụ thể, không có số điện thoại. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét, xử lý trong vụ án này.

 [12] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, nộp, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

 [13] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015;

Căn cứ vào các điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, nộp, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lương Văn P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lương Văn P 15 (mười lăm) tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày 21 tháng 6 năm 2018.

3. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Lương Văn P.

4. Về vật chứng:

Trả lại cho chị Lương Thị H 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone đã qua sử dụng có số IMEL: 355149886721349.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa 1,174 gam chất ma túy MDMA; 01 (một) bao diêm có in chữ “CHÙA THÀNH LẠNG SƠN”; 01 ví da màu đen nhãn hiệu JEEP BULUO đã cũ.

Toàn bộ số vật chứng trên hiện đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 15 tháng 10 năm 2018 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc.

5. Về án phí: Buộc bị cáo Lương Văn P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước.

6. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 81/2018/HS-ST ngày 01/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:81/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về