TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 81/2018/HNGĐ-ST NGÀY 14/05/2018 VỀ LY HÔN
Trong ngày 14 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 450/2018/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 110/2018/QĐXX-ST ngày 02 tháng 5 năm 2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị Kim T, sinh năm 1990 (có mặt)
Địa chỉ: Ấp Giồng Lớn, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
2.Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh V, sinh năm 1979 (có mặt)
Địa chỉ: Ấp Rừng Sến, xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 23 tháng 4 năm 2018 và trong những lời khai tiếp theo tại Tòa án chị Đỗ Thị Kim T trình bày:
Về hôn nhân: chị và anh Nguyễn Thanh V tự nguyện kết hôn năm 2010. Hai người có đến UBND xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đăng ký kết hôn theo quy định Luật Hôn nhân và gia đình vào ngày 24/4/2011. Cuộc sống chung vợ chồng thời gian đầu hòa thuận hạnh phúc đến tháng 5/2017 thì phát sinh mâu thuẫn và ly thân nhau cho đến nay. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên cãi vã nhau về việc chi tiêu tiền bạc trong gia đình. Anh V không chung sống với chị mà về nhà cha mẹ ruột anh V sinh sống hơn một năm nay. Nay chị thấy tình nghĩa vợ chồng không thể hàn gắn nên chị xin được ly hôn với anh V.
Về con chung: có 02 con chung tên Nguyễn Minh Kh sinh ngày 14/4/2012 và Nguyễn Như Y sinh ngày 28/6/2014 hiện con do chị đang nuôi, khi ly hôn chị xin tiếp tục nuôi các con không yêu cầu anh Vũ cấp dưỡng.
Tài sản chung: không có, không yêu cầu Tòa án án giải quyết.
Nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn: anh Nguyễn Thanh V trình bày về tình trạng hôn nhân giữa anh và chị T đúng như chị T nêu về thời gian kết hôn, ly thân, mâu thuẫn vợ chồng nhưng anh thấy mâu thuẫn vợ chồng không có gì trầm trọng anh không đồng ý ly hôn muốn đoàn tụ nuôi con chung. Nếu như Tòa án chấp nhận đơn ly hôn của chị T thì anh đồng ý để chị T nuôi hai đứa con chung Nguyễn Minh Kh sinh ngày 14/4/2012 và Nguyễn Như Y sinh ngày 28/6/2014. Anh không cấp dưỡng nuôi con vì con ở với ai thì người đó nuôi.
Tài sản chung: anh và chị T không có tài sản chung. Nợ chung: anh và chị T không có nợ chung.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Quan hệ pháp luật tranh chấp là hôn nhân gia đình, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đức Hoà theo quy định tại Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về hôn nhân: Xét thấy chị Đỗ Thị Kim T và anh Nguyễn Thanh V hai người trước khi kết hôn có tìm hiểu nhau thời gian ngắn khoảng 03 tháng và tiến đến hôn nhân vào năm 2010 có đăng ký kết hôn tại UBND xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An nên có căn cứ xác định hôn nhân của anh chị là phù hợp pháp luật theo quy định Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Thấy rằng từ khi chung sống, hai người chỉ hạnh phúc thời gian đầu về sau cuộc sống chung không hợp nhau, cãi vã về quan điểm sống do cách tiêu tiền không hợp lý, anh V thường xuyên bỏ bê vợ con không quan tâm chăm sóc vợ con mà về nhà mẹ ruột để chăn nuôi riêng, chị T thường xuyên kêu anh V về chung sống với chị bên nhà mẹ ruột chị nhưng anh V không đồng ý nên hai người đã ly thân từ tháng 5/2017 đến nay. Anh V không đồng ý ly hôn vì anh cho rằng hai vợ chồng khả năng đoàn tụ, mâu thuẫn vợ chồng không đến mức trầm trọng vì anh còn thương vợ nhưng tại phiên tòa anh không đưa ra biện pháp đoàn tụ nên chị T kiên quyết đòi ly hôn. Do đó Hội đồng xét xử thấy rằng chị T và anh V hai người đã ly thân từ tháng 5/2017 không có thiện chí hàn gắn, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cho chị T được ly hôn của anh V theo quy định Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[3] Về con chung: Chị T và anh V có 02 con chung tên Nguyễn Minh Kh sinh ngày 14/4/2012 và Nguyễn Như Y sinh ngày 28/6/2014 hiện đang sống với chị T. Khi ly hôn anh V đồng ý để chị T nuôi hai con, chị T không yêu cầu anh V cấp dưỡng. Xét thấy sự thỏa thuận nuôi con của chị T và anh V là tự nguyện là phù hợp theo quy định Điều 81 Luật hôn nhân gia đình nghĩ nên chấp nhận.
[4] Về tài sản chung: Chị T và anh V thống nhất khai không có không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập xem xét.
[5] Về nợ chung: T và anh V thống nhất khai không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập xem xét.
[6] Về án phí: chị T là nguyên đơn trong vụ án phải chịu án phí Hôn nhân gia đình.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 35, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 9, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ vào khoản 8 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1/ Về quan hệ hôn nhân: chị Đỗ Thị Kim T được ly hôn với anh Nguyễn Thanh V.
2/ Về con chung: Chị T tiếp tục nuôi con tên Nguyễn Minh Kh sinh ngày 14/4/2012 và Nguyễn Như Y sinh ngày 28/6/2014. Anh V không cấp dưỡng nuôi con vì chị T không yêu cầu. Vì quyền lợi của trẻ, anh V được đến thăm nom chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản. Khi cần thiết, các đương sự có quyền yêu cầu xin thay đổi việc nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
3/ Về án phí: chị T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước, được khấu trừ số tiền đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng mà chị T đã nộp theo biên lai số 2705 ngày 23/4/2018 tại Chi cục thi hành án huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 81/2018/HNGĐ-ST ngày 14/05/2018 về ly hôn
Số hiệu: | 81/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 14/05/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về