Bản án 81/2018/HNGĐ-ST ngày 06/08/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 81/2018/HNGĐ-ST NGÀY 06/08/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 06 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 106/2018/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 6 năm 2018 về tranh chấp ly hôn hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2653/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hứa Thị Ngọc D; nơi cư trú: số 41 Trần Nhật D, phường CĐ, quận NQ, thành phố Hải Phòng, vắng mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Anh Lê Mạnh H; nơi cư trú: Cộng hòa liên bang Đức, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các tài liệu nguyên đơn là chị Hứa Thị Ngọc D trình bày: Chị và anh Lê Mạnh H kết hôn tự nguyện, có cưới hỏi theo phong tục và đăng ký kết hôn tại Sở Tư pháp thành phố Hải Phòng vào tháng 5 năm 2015. Sau khi kết hôn anh H quay trở về Đức sinh sống còn chị vẫn ở lại Việt Nam. Từ đó cho đến nay vợ chồng anh chị ít có thời gian bên nhau, mặc dù anh H có về Việt Nam mấy lần nhưng khoảng thời gian anh chị ở với nhau không nhiều. Đến giữa năm 2016, vợ chồng xẩy ra mâu thuẫn, nguyên nhân về vấn đề tình cảm, về quan điểm và mục đích sống. Mặt khác do vợ chồng sống xa cách không có thời gian chia sẻ cuộc sống để hiểu và thông cảm cho nhau, nên mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Mâu thuẫn của chị và anh H cũng đã được bạn bè, gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng không có khả năng đoàn tụ, nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lê Mạnh H. Giữa chị và anh Lê Mạnh H không có con chung, tài sản chung.

Trong đơn xin ly hôn và các tài liệu gửi về Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, bị đơn là anh Lê Mạnh H trình bày: Anh thống nhất với chị D về quá trình kết hôn, về nguyên nhân mâu thuẫn, về con chung và tài sản chung. Bản thân anh cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh cũng đồng ý ly hôn với chị D. Giữa anh và chị D không có con chung, tài sản chung.

Do anh Lê Mạnh H hiện đang ở nước ngoài và không yêu cầu hòa giải nên căn cứ khoản 2, khoản 4 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án.

Tại phiên tòa, cả chị Hứa Thị Ngọc D và anh Lê Mạnh H cùng có đơn xin xét xử vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, xét thấy:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Chị Hứa Thị Ngọc D và anh Lê Mạnh H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Sở Tư pháp, thành phố Hải Phòng vào ngày 15 tháng 5 năm 2015, theo quy định tại điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đây là hôn nhân hợp pháp. Anh Lê Mạnh H hiện đang cư trú ở nước ngoài, theo quy định tại khoản 3 Điều 35, điểm b khoản 1 Điều 39, điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.

[2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Anh Lê Mạnh H đang sinh sống ở nước ngoài, tài liệu anh gửi về đã được Đại sứ quán Việt Nam tại Cộng hòa Liên bang Đức xác nhận, anh có đơn xin xét xử vắng mặt và ủy quyền cho người nhà nhận các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh. Chị Hứa Thị Ngọc D đã nhận được Quyết định đưa vụ án ra xét xử hợp lệ nhưng chị có đơn xin xét xử vắng mặt do chị bận công tác đột xuất nên chị không tham dự phiên tòa được. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị D, anh H.

[3] Về hôn nhân: Lời khai của chị Hứa Thị Ngọc D thống nhất với lời khai của anh Lê Mạnh H về nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng, đồng thời lời khai của anh chị cũng phù hợp với ý kiến của đại diện gia đình hai bên. Do đó, có cơ sở xác định cuộc sống chung giữa chị Hứa Thị Ngọc D và anh Lê Mạnh H có mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, hơn nữa sau khi kết hôn anh chị không có cuộc sống chung do vậy tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt. Mâu thuẫn của anh chị đã được gia đình và bạn bè khuyên bảo, bản thân anh chị cũng đã cố gắng khắc phục nhưng đều không có kết quả. Nay cả hai cùng xác định tình cảm vợ chồng không còn, như vậy việc chị Hứa Thị Ngọc D xin ly hôn là hoàn toàn chính đáng

Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Hứa Thị Ngọc D và anh Lê Mạnh H đã thực sự không còn yêu thương nhau, cuộc sống chung không thể kéo dài, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cần áp dụng Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chấp nhận đề nghị xin ly hôn của chị Hứa Thị Ngọc D.

[4] Về nuôi con và chia tài sản: Chị Hứa Thị Ngọc D, anh Lê Mạnh H khai thống nhất không có con chung, không có tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Hứa Thị Ngọc D là nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo của các đương sự: Chị Hứa Thị Ngọc D và anh Lê Mạnh H được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2, khoản 4 Điều 207; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 238; Điều 266; Điều 273; điểm d khoản 1 Điều 469; khoản 2 Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Hứa Thị Ngọc D được ly hôn với anh Lê Mạnh H.

2. Về nuôi con và chia tài sản: Chị Hứa Thị Ngọc D, anh Lê Mạnh H không có con chung và tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về án phí: Chị Hứa Thị Ngọc D phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai số 0010733 ngày 15 tháng 6 năm 2018 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng. Chị Hứa Thị Ngọc D đã nộp đủ.

4. Về quyền kháng cáo của các đương sự:

Chị Hứa Thị Ngọc D được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.

Anh Lê Mạnh H được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
  • Tên bản án:
    Bản án 81/2018/HNGĐ-ST ngày 06/08/2018 về ly hôn
  • Số hiệu:
    81/2018/HNGĐ-ST
  • Cấp xét xử:
    Sơ thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hôn Nhân Gia Đình
  • Ngày ban hành:
    06/08/2018
  • Từ khóa:
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 81/2018/HNGĐ-ST ngày 06/08/2018 về ly hôn

Số hiệu:81/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về