TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN
BẢN ÁN 81/2018/DS-ST NGÀY 26/10/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 26 tháng 10 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 239/2013/TLST-DS ngày 25/4/2013 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 145/2018/QĐXX-ST ngày 20/9/2018, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Hồ Thị Thanh S, sinh năm 1964; Địa chỉ: đường M, phường M, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
Bị đơn: Phạm Thị T, sinh năm 1966; Địa chỉ: Khu phố N, phường C, thành phố T, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, các tài liệu, chứng cứ kèm theo và đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, nguyên đơn Hồ Thị Thanh S trình bày: Ngày 13/7/2011, nguyên đơn Hồ Thị Thanh S cho bị đơn Phạm Thị T vay số tiền 7.000.000 đồng, góp mỗi ngày 70.000 đồng, thời gian góp 100 ngày, thoả thuận lãi 5%/tháng. Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải thanh toán tổng số tiền gốc 7.000.000 đồng và tiền lãi theo quy định pháp luật.
Bị đơn Phạm Thị T vắng mặt nên không có lời trình bày.
Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa đã tiến hành hòa giải và kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án nhưng do bị đơn vắng mặt nên không tiến hành được.
Nguyên đơn Hồ Thị Thanh S có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt; bị đơn Phạm Thị T được triệu tập hợp lệ để xét xử nhưng vắng mặt nên căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.
Tại phiên tòa:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuy Hòa phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định của pháp luật. Bị đơn vắng mặt phải chịu hậu quả pháp lý theo quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 471; Điều 474; Điều 476; Điều 305 của Bộ luật Dân sự năm 2005, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Hồ Thị Thanh S. Buộc bị đơn Phạm Thị T phải trả cho nguyên đơn Hồ Thị Thanh S 7.000.000 đồng tiền gốc và tiền lãi theo mức lãi suất 1,125%/tháng, tính từ ngày bị đơn Phạm Thị T vi phạm thời hạn trả nợ (ngày 14/7/2011) đến ngày Tòa xét xử sơ thẩm (ngày 26/10/2018). Về án phí: Bị đơn Phạm Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Nguyên đơn Hồ Thị Thanh S khởi kiện yêu cầu bị đơn Phạm Thị T phải trả khoản nợ vay là tranh chấp về hợp đồng dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên theo quy định tại khoản 3 Điều 26; Điều 35 của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015.
[1.2] Đơn khởi kiện của nguyên đơn đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ của bị đơn nhưng qua xác minh tại địa phương, vào năm 2016 bị đơn đã chuyển đi nơi khác sinh sống nhưng không thông báo cho nguyên đơn biết về nơi cư trú mới của mình. Do vậy, bị đơn thay đổi nơi cư trú mà không thông báo cho nguyên đơn biết về nơi cư trú theo quy định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật Dân sự năm 2015 và Điều 6 của Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05 tháng 05 năm 2017 hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 của BLTTDS 2015 của Hội đồng thẩm phán TANDTC nên thuộc trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, Tòa án vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.
[2] Xét yêu cầu đòi nợ gốc của nguyên đơn: Vào ngày 13/7/2011, bị đơn Phạm Thị T vay của nguyên đơn Hồ Thị Thanh S với số tiền 7.000.000 đồng, góp mỗi ngày 70.000 đồng, thời gian góp 100 ngày, thoả thuận lãi 5%/tháng. Từ ngày vay cho đến nay, bị đơn chưa trả khoản tiền gốc và lãi nào cho nguyên đơn. Vì vậy, xét yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả số tiền gốc 7.000.000 đồng là phù hợp với quy định tại Điều 474 của Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền gốc là 7.000.000 đồng.
[3] Đối với yêu cầu tính lãi của nguyên đơn theo quy định pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy: Tại giấy nhận nợ vay tiền ngày 13/7/2011, các đương sự thỏa thuận về việc trả lãi nhưng mức lãi suất 5%/tháng là vượt quá quy định tại khoản 1 Điều 476 của Bộ luật Dân sự năm 2005. Nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả lãi suất theo quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận mức lãi suất bằng 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố là 9%/năm x 150% = 13,5%/năm = 1,125%/tháng (Quyết định số 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010), thời gian tính lãi được tính từ ngày bị đơn vi phạm thời hạn trả nợ (ngày 14/7/2011) đến ngày Tòa xét xử sơ thẩm (ngày 26/10/2018) là 87 tháng 12 ngày x 7.000.000 đồng x 1,125%/tháng = 6.882.750 đồng.
[4] Vì vậy, bị đơn Phạm Thị T phải trả cho nguyên đơn Hồ Thị Thanh S tổng số tiền 13.882.750 đồng, trong đó tiền gốc 7.000.000 đồng, tiền lãi 6.882.750 đồng.
[5] Về án phí: Bị đơn Phạm Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. Hoàn lại cho nguyên đơn tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Các Điều 471; Điều 474; Điều 476; Điều 305 của Bộ luật Dân sự năm 2005. Điều 6 của Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05 tháng 05 năm 2017 hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 của BLTTDS 2015 của Hội đồng thẩm phán TANDTC.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn Hồ Thị Thanh S, buộc bị đơn Phạm Thị T phải trả cho nguyên đơn Hồ Thị Thanh S số tiền 13.882.750 đồng (Mười ba triệu tám trăm tám mươi hai nghìn bảy trăm năm mươi đồng). Trong đó tiền gốc 7.000.000 đồng, tiền lãi 6.882.750 đồng.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, bị đơn còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố là 9%/năm tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành xong.
Về án phí: Áp dụng vào Điều 27 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/2/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án. Bị đơn Phạm Thị T phải chịu 694.137 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả cho nguyên đơn Hồ Thị Thanh S số tiền 175.000 đồng tại biên lai thu tiền số AA/2010/10612 ngày 23/4/2013 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.
Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án 81/2018/DS-ST ngày 26/10/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 81/2018/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tuy Hòa - Phú Yên |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 26/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về