Bản án 811/2017/HNGĐ-ST ngày 14/12/2017 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 811/2017/HNGĐ-ST NGÀY 14/12/2017 VỀ LY HÔN 

Ngày 14 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 677/2017/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 10 năm 2017 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 394/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 11 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Vũ Văn H, sinh năm 1967; địa chỉ: khu HL, thị trấn M, huyện T, thành phố Hải Phòng; có mặt;

2. Bị đơn: Bà Trần Thị L (tên gọi khác là Trần Thị  L), sinh năm 1968; địa chỉ: khu HL, thị trấn M, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ông Vũ Văn H là nguyên đơn khởi kiện với nội dung ông và bà Trần Thị L qua quen biết, phát sinh tình cảm rồi đi đến hôn nhân tự nguyện  Ông H và bà L đã đăng ký kết hôn ngày 25/3/1988 tại Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện T, thành phố Hải Phòng và có tổ chức lễ cưới theo phong tục  Sau đó, ông H và bà L chung sống tại khu HL, thị trấn M, huyện T. Quá trình chung sống hạnh phúc, ông H và bà L có ba con chung, đến cuối năm 2004 phát sinh mâu thuẫn Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong làm ăn kinh tế và nuôi dạy con cái, dẫn đến vợ chồng cãi mắng lẫn nhau thường xuyên và tình cảm vợ chồng dần không còn  Do mâu thuẫn, vợ chồng ông H và bà L đã sống ly thân nhau mỗi người một nơi từ đó đến nay  Nay ông H nhận thấy không còn tình cảm với bà L nên đề nghị Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà L. Về con chung, ông H và bà L có 03 con chung tên Vũ Quang , sinh ngày 30/4/1988, Vũ Văn T, sinh ngày 29/5/1990 và Vũ Thị Hoàng Y, sinh ngày 18/5/1997  Hiện nay các con chung đều đã thành niên và có khả năng lao động nên không yêu cầu Tòa án giải quyết về việc giao người nuôi con. Ông H không đề nghị giải quyết chia tài sản với bà L.

Bà Trần Thị L là bị đơn trình bày nội dung về quan hệ hôn nhân, về con chung với ông Vũ Văn H đúng như ông H khai. Bà và ông H hạnh phúc gần 20 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông H nảy sinh tình cảm với người phụ nữ khác nên vợ chồng mâu thuẫn. Ông H đã bỏ nhà đi từ năm 2007 đến nay không khi nào quay về chung sống cùng bà nữa  Nay ông H xin ly hôn, bà không còn tình cảm vợ chồng với ông nhưng bà không đồng ý ly hôn  Hiện nay ba con chung của bà và ông H đều đã trưởng thành  Bà không đề nghị Tòa án giả quyết về nuôi con và chia tài sản

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án theo Điều 262 của Bộ luật tố tụng dân sự. Ý kiến về việc giải quyết vụ án, Kiểm sát viên đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về việc bà Trần Thị L vắng mặt tại phiên tòa

Bà Trần Thị L là bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa Hội đồng xét xử căn cứ đi m b khoản 1 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng hình sự xét xử vắng mặt bà Trần Thị L. [2] Về yêu cầu ly hôn của ông Vũ Văn H với bà Trần Thị L

Ông Vũ Văn H và bà Trần Thị L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chứng nhận đăng ký kết hôn  Do đó, hôn nhân giữa ông H và bà L là hợp pháp Ông H xin ly hôn với lý do vợ chồng mâu thuẫn, thường xuyền cãi mắng lẫn nhau và hiện tại đã ly thân  Bà L đã ly thân và thừa nhận không còn tình cảm với ông H. Tuy nhiên, ông H xin ly hôn bà L lại không đồng ý. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tổ chức hòa giải, lúc đầu bà L đồng ý ly hôn và hai bên đương sự đã thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án nhưng sau đó, bà L thay đổi quan đi m không đồng ý ly hôn. Xét quan hệ hôn nhân xuất phát từ tình cảm yêu thương của hai bên dành cho nhau  Nhưng tình cảm giữa ông H và bà L đã không còn  Qua đó chứng minh quan hệ giữa ông H và bà L đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được  Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H xin ly hôn với bà L.

[3] Về nuôi dưỡng con chung khi ly hôn và về chia tài sản

Các con chung của ông H và bà L đều đã thành niên và có khả năng lao động nên Hội đồng xét xử không giải quyết về việc giao người trực tiếp nuôi con khi ly hôn.

Ông H và bà L không đề nghị giải quyết chia tài sản nên Hội đồng xét xử không giải quyết chia tài sản giữa ông H và bà L.

[4] Ông Vũ Văn H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho ông Vũ Văn H ly hôn với bà Trần Thị L.

Ông Vũ Văn H phải nộp 300 000 đồng án phí dân sự sơ thẩm Đối trừ với tạm ứng án phí đã nộp (biên lai thu số 0005846 ngày 13/10/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên), ông Vũ Văn H đã nộp đủ án phí

Ông Vũ Văn H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bà Trần Thị L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được giao hoặc niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 811/2017/HNGĐ-ST ngày 14/12/2017 về ly hôn

Số hiệu:811/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về