Bản án 802/2020/HS-PT ngày 22/12/2020 về tội giết người

TÒA ÁNNHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 802/2020/HS-PT NGÀY 22/12/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Trong ngày 22 tháng12 năm 2020 tại trụsở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 228/2020/TLPT- HS ngày 27 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo Đàm Minh Th do có kháng cáo củabị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 203/2020/HS-ST ngày 18/06/2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

Đàm Minh Th, sinh năm 1982 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: nam; Nơi đăng ký thường trú: A…ấp x, xã Qui Đ, huyện Bình C, Thành phố Hồ Chí Minh; dân tộc: Hoa; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; nghề nghiệp: công nhân; trình độ học vấn:8/12; Cha: Đàm S, mẹ: Nguyễn Thị S1; có vợ , 01 con sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt, tạm giam từ: 14/7/2019. (Có mặt)

Người bào chữa chỉ định cho bị cáo:

Luật sư Hồ Hoài Nhân thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.(Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đàm Minh Th và Huỳnh Ngọc Kim T (sinh năm 1982; cư trú: Tổ 2, ấp Tấn Phước, xã Tân Kim, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An) kết hôn năm 2010, có 01 con chung sinh năm 2013. Đến tháng 3/2019, Th và chị T ly hôn, chị T nuôi con. Sau đó, Th muốn nối lại quan hệ vợ chồng, nhưng chị T không đồng ý. Th nghĩ chị T có mối quan hệ tình cảm với người khác nên nảy sinh ý định giết chị T.

Khong 09 giờ 30 ngày 14/7/2019, Th chuẩn bị 01 sợi dây điện dài khoảng 90cm, 01 cuộn băng keo màu vàng cất trong cốp xe rồi điều khiển xe mô tô hiệu Honda PCX, biển số 59N2-059.56 từ nhà đến nơi làm việc của chị T tại Công ty cổ phần xí nghiệp dịch vụ vận tải Hỏa Xa Sài Gòn, số 01 Nguyễn Thông, Phường 9, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh để tìm chị T. Khi đến nơi, Th đứng bên ngoài nhìn vào có thấy nhiều người, chị T đang làm việc nên ngồiở quán nước gần đó chờ cơ hội. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, lúc này trong văn phòng chỉ có một mình chị T, Th liền đi vào phòng nhìn chị T đang nói chuyện điện thoại zalo với một thanh niên. Th ghen tức liền xông vào ôm chị T quật ngã xuống nền nhà, dùng cuộn băng keo màu vàng đã chuẩn bị sẵn quấn hai tay và quấn quanh cổ, miệng của chị T, chị T dùng tay giật băng keo ở miệng ra và kêu cứu. Th liền lấy 01 đoạn dây điện dài khoảng 90 cm trong túi quần ra quấn 02 vòng quanh cổ chị T siết chặt khoảng 05 phút rồi buông ra và tiếp tục dùng 02 tay bóp cổ chị T cho đến lúc chị T tắt thở. Th tháo băng keo và dây điện ra mang giấu vào thùng hàng gần đó, rồi rời khỏi hiện trường.

Khi về nhà, Th gọi điện thoại cho bà Nguyễn Thị L là mẹ ruột của chị T báo cho bà Lang biết việc Th vừa giết chết chị T tại nơi làm việc. Bà Lang gọi điện thoại báo cho chị Trần Thị Minh Th1 là giám đốc Công ty Cổ phần xí nghiệp dịch vụ vận tải Hỏa Xa Sài Gòn. Sau đó, chị Vương Thảo O (là nhân viên Công ty Cổ phần xí nghiệp dịch vụ vận tải Hỏa Xa Sài Gòn) cùng chồng chạy đến Công ty phát hiện chị T nằm dưới nền nhà nên đưa chị T đi cấp cứu đến Bệnh viện 115 nhưng chị T đã chết trước đó.

Đến 18 giờ 30 ngày 14/7/2019, Đàm Minh Th đến Công an xã Qui Đức, huyện Bình Chánh đầu thú và khai hành vi phạm tội như đã nên trên.

Tại Bản Kết luận giám định pháp y tử thi số 1082 -19/KLGĐ-PY ngày 18/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Nguyên nhân chết: Huỳnh Ngọc Kim T chết do ngạt siết cổ. Trong máu không tìm thấy cồn và ma túy. Dịch âm đạo không phát hiện thấy xác tinh trùng.

Bà Nguyễn Thị L là mẹ ruột của chị Huỳnh Ngọc Kim T yêu cầu Đàm Minh Th bồi thường chi phí tiền mai táng 130.000.000 đồng, hàng tháng hỗ trợ bà Lang để nuôi dưỡng con của chị T và Th đến năm 18 tuổi. Đàm Minh Th chưa bồi thường.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số:203/2020/HS-ST ngày18tháng6năm 2020, Tòa ánnhândân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:

Căn cứ điểm q khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51,Điều 39 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Đàm Minh Th tù chung thân về tội “Giết người”. Thời hạn phạt tù tính từ ngày 14/7/2019.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 18 tháng 6 năm 2020bị cáo có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, bị cáo Đàm Minh Thgiữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảmnhẹ hình phạt vì mức án đã tuyên là quá nặng. Bị cáo thừa nhận án sơ thẩm đã xét xử đúng hành vi của bị cáo.

Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhận định cấp sơ thẩm đã tuân thủ các quy định về tố tụng, các chứng cứ được thu thập đầy đủ, hợp pháp nên có căn cứ để truy tố và xét xử bị cáo về hành vi giết người theo điểm q khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự. Xét tính chất mức độ nguy hiểm của hànhvimà bị cáo đã thực hiện cùng các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ đã được vận dụng để tuyên án, hình phạt đã tuyên là tương xứng. Các lý do bị cáo nêu để kháng cáo không có gì mới so với giai đoạn xét xử sơ thẩm. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo xác định bản án sơ thẩm đã xét xử đúng hành vi phạm tội của bị cáo nên thống nhất về tội danh và điều luật áp dụng. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử lưu ý đến các tình tiết giảm nhẹ: bị cáo là người Hoa thuộc dân tộc ít người, học vấn thấp nên hiểu biết pháp luật kém, gia đình có cậu ruột là người có công, hoàn cảnh khó khăn, cha mẹ đều già và có bệnh nan y, hiện nay con chung của bị cáo và bị hại đang được cha mẹ bị cáo nuôi dưỡng. Tuy đại diện bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường hoặc cấp dưỡng nuôi con nhưng bị cáo vẫn tự nguyện thực hiện. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nhưng án sơ thẩm chưa áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ. Đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo, giảm án cho bị cáođể khoan hồng cho bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về thủ tục tố tụng: quá trình tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã tuân thủ đúng quy định, các chứng cứ đã được thu thập hợp pháp, đảm bảo tính khách quan, đầy đủ để giải quyết toàn bộ các vấn đề của vụ án.

[2]Về nội dung vụ án:đối chiếu các chứng cứ thu thập được đã chứng minh:

chỉ vì bị hại không đồng ý nối lại quan hệ hôn nhân sau khi ly hôn với bị cáo mà bị cáo đã chuẩn bị sẵn các công cụ trước khi đến nơi bị hại làm việc nhằm tước đoạt tính mạng của bị hại. Cho thấy về ý thức bị cáo đã thể hiện tính cố ý phạm tội. Hành vi khách quan thể hiện bị cáo quyết tâm phạm tội đến cùng khi sử dụng các công cụ đã chuẩn bị sẵn khống chế và xiết cổ bị hại đến khi tắt thở mới dừng lại. Bản thân bị cáo hoàn toàn đủ năng lực để nhận thức về tính nguy hiểm của hành vi nhưng vẫn cố ý xâm hại đến tính mạng người khác. Truy tố và xét xử bị cáo về tội “Giết người” với tình tiết định khung hình phạt là “phạm tội vì động cơ đê hèn” theo điểm q khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

nh vi của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm, xem thường tính mạng người khác, hành xử thô bạo nên cần xử phạt cho nghiêm. Án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và vận dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để tuyên hình phạt tù chung thân là tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi.

[3] Về yêu cầu kháng cáo: Bị cáo kháng cáo nhưng không xuất trình chứng cứ mới, các lý do kháng cáo đã nêu đã được ghi nhận đầy đủ trong bản án sơ thẩm để lượng hình nên không có cơ sở để xem xét.

Các ý kiến bào chữa của Luật sư là không có cơ sở để chấp nhận do các tình tiết giảm nhẹ đã được áp dụng đầy đủ, trường hợp cậu của bị cáo là người có công không thuộc tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Việc bị cáo bồi thường cho bị hại không có tài liệu chứng minh.

Như đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ, Hội đồng xét xử thống nhất giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.

Áp dụng: Điểm q khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1 và 2 Điều 51,Điều 39 Bộ luật Hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử phạt:

Đàm Minh Th tù chung thân về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 14/7/2019.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 802/2020/HS-PT ngày 22/12/2020 về tội giết người

Số hiệu:802/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về