Bản án 80/2020/HS-ST ngày 30/07/2020 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGHI SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 80/2020/HS-ST NGÀY 30/07/2020 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 30 tháng 7 năm 2020, tại Toà án nhân dân thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 77/2020/TLST-HS ngày 22 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 90/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Hồ Xuân T - Sinh ngày: 29/01/2001; nơi sinh: phường N, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Thôn N, phường N, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hồ Xuân T, sinh năm 1964 và bà: Nguyễn Thị S, sinh năm 1965; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt)

- Người bào chữa cho bị cáo Hồ Xuân T: Ông Lê Hồng N - là Luật sư của Trung tâm Tư vấn pháp luật - Hội Luật gia Liên cơ quan Thanh Hóa thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Thanh Hóa ( có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Trường Trung học phổ thông Tĩnh Gia I;

Địa chỉ: Tiểu khu 4, phường Hải Hòa, thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa;

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Hồng Q - Chức vụ: Phó hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông Tĩnh Gia I; ( vắng mặt) Nơi cư trú: Tiểu khu 1, phường H, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa

+ Anh Lê Mạnh H - Sinh năm: 1977; nơi cư trú: Thôn Đ, phường N, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa; (vắng mặt)

+ Anh Cao Xuân T1 - Sinh năm: 2001; nơi cư trú: Thôn N, xã H, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa; (vắng mặt)

+ Anh Trần Quang T2 - Sinh năm: 2002; nơi cư trú: Thôn X, phường H, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa; (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Cao Xuân T1, Trần Quang T2 và Hồ Xuân T là học sinh lớp 12A3 Trường THPT Tĩnh Gia I, có địa chỉ tại Tiểu khu 4, thị trấn Tĩnh Gia, huyện Tĩnh Gia (nay là phường Hải Hòa, thị xã Nghi Sơn). Quá trình học tập ở trường, T1, T2 và T biết rõ tại phòng làm việc của anh Nguyễn Hồng Q (là Phó Hiệu trưởng trường THPT Tĩnh Gia I) có thu giữ nhiều điện thoại của học sinh vi phạm nội quy nhà trường trong năm học. Ngày 26/5/2019, Cao Xuân T1 rủ Trần Quang T2 cùng nhau trộm cắp tài sản tại phòng làm việc của anh Nguyễn Hồng Q, T2 đồng ý.

Khoảng 22h30’ ngày 29/5/2019, Cao Xuân T1 và Trần Quang T2 dùng kìm cộng lực cắt khóa cửa rồi đi vào trong phòng tìm kiếm tài sản để trộm cắp. T1 mở tủ bàn làm việc của anh Q thì thấy có nhiều điện thoại được bọc trong giấy A4, T1 xé các giấy bọc rồi lấy điện thoại, tổng cộng được 06 cái. Toàn bộ số điện thoại trên là điện thoại nhà trường tạm giữ của học sinh trong quá trình học tập đã vi phạm quy chế gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F5 Youth, màu hồng của em Nguyễn Lê Bình A, sinh năm 2003, học sinh lớp 11A1, trú tại thôn Đ, xã T, huyện T (nay là phường T, thị xã N); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5s, màu Gold, bản 16 Gb của em Hồ Xuân T, sinh năm 2003, học sinh lớp 11A15, trú tại thôn V, xã N, huyện T (nay là phường N, thị xã N); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung GT - 19300, màu đen của em Nguyễn Thanh H, sinh năm 2003, học sinh lớp 11A10, trú tại tiểu khu x, thị trấn T (nay là phường H, thị xã N); 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO R827, màu trắng của em Đào Nhật T, sinh năm 2001, học sinh lớp 12A3, trú tại thôn T, xã H, huyện T (nay là phường H, thị xã N); 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A39, màu hồng của em Nguyễn Trọng G, sinh năm 2002 học sinh lớp 12A12, trú tại thôn D, xã X, huyện T (nay là phường X, thị xã N) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO NEO, màu hồng của em Lê Ngọc A, sinh năm 2001 học sinh lớp 12A3, trú tại tiểu khu y, thị trấn T, huyện T (nay là phường H, thị xã N).

Trộm cắp điện thoại xong, T1 thấy 01 chiếc máy tính xách tay (Laptop), nhãn hiệu ASUS, màu đen, Model: X450LA đang cắm sạc ở trên giường, T1 đi lại rút sạc rồi lấy máy tính kèm bộ sạc cho vào chiếc cặp đựng máy tính cùng 06 chiếc điện thoại trên, T1 tiếp tục mở tủ kính lấy được 01 chiếc máy ảnh (có cả túi đựng), nhãn hiệu NIKON D3100 màu đen. Sau đó, T1 và T2 đi về nhà T1 cất chiếc kìm cộng lực cùng toàn bộ số tài sản trộm cắp được và vào phòng đi ngủ.

Sáng ngày 30/5/2019, Cao Xuân T1 bỏ 06 chiếc điện thoại và máy tính xách tay vào cặp mang đi học. Trên đường đi học, T1 gặp Hồ Xuân T, T1 bảo T mang cất cho T1 01 máy tính xách tay và 06 chiếc điện thoại di động. T hỏi T1: “Máy ở đâu đây”, T1 bảo: “Tối qua lấy ở trường” thì T hiểu là tối qua T1 trộm cắp ở trường THPT Tĩnh Gia I, T đồng ý và đem toàn bộ số tài sản trên về nhà cất giấu vào tủ quần áo, sau đó T1 và T đi học bình thường.

Sáng ngày 31/5/2019, Trần Quang T2 nhắn tin bảo Hồ Xuân T mang điện thoại lên cho T2, T đem chiếc điện thoại OPPO F5 màu hồng đến cho T2, nhưng T2 bẻ khoá (mật khẩu) không được nên T2 lại đưa chiếc điện thoại trên cho Cao Xuân T1.

Sáng ngày 04/6/2019, Hồ Xuân T đến đón Cao Xuân T1 đi học, T1 đưa chiếc điện thoại OPPO F5 màu hồng mà trước đó T đã đưa cho T2 bảo T đem đi cầm đồ, lúc này T1 đã phá khoá mật khẩu chiếc điện thoại xong. Hồ Xuân T đem chiếc điện thoại nêu trên đến quán Internet H, chủ quán là anh Lê Mạnh H, sinh năm 1977, ở thôn Đ, xã N, huyện T (nay là phường N, thị xã N) cầm đồ được 1.700.000đ. Số tiền này T đưa cho T1 1.200.000đ, còn T giữ lại 500.000đ nói là lấy nợ T1 300.000đ và vay thêm T1 200.000đ. Do không có điện thoại dùng nên T đã nói với T1 cho T dùng tạm 01 chiếc điện thoại, T1 đồng ý. T đã lấy chiếc điện thoại OPPO R827 lắp số sim của mình vào và sử dụng.

Sau khi nhận được tin nhắn của Trần Quang T2, trưa ngày 03/6/2019 Hồ Xuân T đem chiếc máy tính xách tay lên cho T2. Sau đó, Cao Xuân T1 và Trần Quang T2 đem đến quán Internet H cầm đồ được 1.000.000đ, T1 đưa cho T2 350.000đ, còn 650.000đ T1 giữ lại tiêu xài cá nhân hết. Đối với chiếc máy ảnh Cao Xuân T1 đưa cho Trần Quang T2 mang về nhà cất giấu. Toàn bộ số tiền được chia nhau ở trên các đối tượng đã tiêu xài cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 61/KLĐGTS ngày 24/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản huyện Tĩnh Gia (nay là thị xã Nghi Sơn) kết luận: 01 máy tính xách tay nhãn hiệu ASUS, màu đen, Model: X450LA (có kèm theo sạc pin và túi đựng) có giá trị 3.500.000đ; 01 máy ảnh nhãn hiệu NIKON D3100, màu đen (có kèm theo túi đựng) có giá trị 2.500.000đ; 01 điện thoại di động, nhãn hiệu OPPO F5 Youth, màu hồng, có giá trị 2.000.000đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5s, màu Gold, bản 16 Gb, có giá trị 250.000đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung GT - 19300, màu đen, có giá trị 300.000đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO R827, màu trắng, có giá trị 500.000đ; 01 điện thoại di động, nhãn hiệu OPPO A39, màu hồng, có giá trị 400.000đ và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO NEO, màu hồng, có giá trị 200.000đ. Toàn bộ số tài sản nêu trên đều đã qua sử dụng, có tổng giá trị là 9.650.000đ (Chín triệu, sáu trăm năm mươi nghìn đồng).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 109/2019/HSST ngày 31/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia (nay là TAND thị xã Nghi Sơn) đã xử lý đối với hành vi phạm tội của Trần Quang T2, Cao Xuân T1 và Hồ Xuân T.

Tại Bản án số 25/2020/HS - PT ngày 04/02/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, quyết định hủy một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 109/2019/HSST ngày 31/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia (nay là TAND thị xã Nghi Sơn) về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Hồ Xuân T; giao hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân huyện Tĩnh Gia (nay là VKSND thị xã Nghi Sơn) để truy tố, xét xử lại theo thủ tục chung.

Tại Bản cáo trạng số 95/CT-VKSTXNS ngày 14/6/2020, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố bị cáo Hồ Xuân T về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 36 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 136 BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 09 đến 12 tháng cải tạo không giam giữ. Miễn khấu trừ thu nhập và không áp dụng hình phạt bổ sung. Không xem xét phần vật chứng và phần bồi thường thiệt hại. Buộc bị cáo phải chịu tiền án phí HSST.

Luật sư bào chữa cho bị cáo có ý kiến: Thống nhất về tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ là bị cáo có thành tích xuất sắc trong học tập và đề nghị áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với bị cáo;

Bị cáo nhận tội, không có ý kiến tranh luận gì với đại diện VKS, đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình và đề nghị HĐXX áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với bị cáo .

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Phân tích tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Nghi Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Nghi Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1] Phân tích những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội:

Tại phiên tòa Hồ Văn T thừa nhận: Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 29/5/2019 tại Trường THPT Tĩnh Gia I, thuộc tiểu khu 4, thị trấn Tĩnh Gia, huyện Tĩnh Gia, Cao Xuân T1 và Trần Quang T2 đã có hành vi đột nhập vào phòng làm việc của anh Nguyễn Hồng Q, là Phó Hiệu trưởng trường THPT Tĩnh Gia 1, trộm cắp tài sản gồm: 01 chiếc máy tính xách tay; 01 chiếc máy ảnh và 06 chiếc điện thoại di động.

Hồ Xuân T biết việc Cao Xuân T1 và Trần Quang T2 lấy trộm được số tài sản nêu trên. Tuy nhiên, Hồ Xuân T đã cất dấu 01 máy tính xách tay và 06 điện di động có tổng giá trị là 7.150.000đ (Bảy triệu một trăm năm mươi nghìn đồng), sau đó đem chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu OPPO F5 Youth, màu hồng đi cầm cố được số tiền 1.700.000đ (Một triệu bảy trăm nghìn đồng), trong số tiền này T được hưởng lợi 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) theo sự chỉ đạo của Trọng.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, phù hợp với lời kết luận của đại diện Viện kiểm sát. Do vậy có đủ cơ sở kết luận: Hành vi phạm tội của bị cáo có đủ các dấu hiệu cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 của BLHS.

Đối với hành vi trộm cắp tài sản của Trần Quang T2 và Cao Xuân T1 đã được giải quyết tại Bản án hình sự sơ thẩm số 109/2019/HSST ngày 31/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia (nay là TAND thị xã Nghi Sơn) và đã có hiệu lực pháp luật. Do đó HĐXX miễn xét.

[1] Xét tính chất vụ án: Hiện nay trên địa bàn thị xã Nghi Sơn nói chung, tình trạng trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản đang diễn ra khá phức tạp và có chiều hướng gia tăng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản và xâm phạm đến trật tự công cộng, làm cho nhân dân trên địa bàn hoang mang lo sợ. Vì vậy cần phải tuyên cho bị cáo một hình phạt thật nghiêm mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[2] Xét về nhân thân và trách nhiệm hình sự: Tiền án, tiền sự chưa, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo đã khắc phục hậu quả cho người có quyền lợi liên quan; thành khẩn khai báo và là người có thành tích xuất sắc trong học tập. Bố mẹ bị cáo là người có công với cách mạng được hưởng chính sách như thương binh. Do đó khi lượng hình cần áp dụng điểm b, i, s, v khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS, làm tình tiết giảm nhẹ lượng giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được tính khoan hồng của pháp luật. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Do đó, xét thấy không cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo cải tạo tại địa phương theo quy định tại Điều 36 BLHS cũng đủ điều kiện cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[3] Xét về khấu trừ thu nhập:Lẽ ra phải áp dụng khoản 3 Điều 36 của BLHS khấu trừ một phần thu nhập của bị cáo để sung quỹ nhà nước. Nhưng bị cáo không có việc làm, không có thu nhập, sống phụ thuộc vào bố mẹ. Do đó Miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo là phù hợp.

[4] Xét về phần hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Xét về bồi thường dân sự và vật chứng: Đã được giải quyết tại bản án số 109/2019/HSST ngày 31/10/2029. Do đó hội đồng miễn xét.

[6] Xét về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án và điểm 1 mục I bản danh mục án phí, lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào: khoản 1 Điều 323; điểm b, i, s,v khoản 1 Điều 51và Điều 36 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 136 BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

- Tuyên bố: Hồ Xuân T phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

- Xử phạt: Hồ Xuân T 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường Nguyên Bình, thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa nhận được quyết định thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ và bản sao bản án. Giao bị cáo Thiên cho chính quyền Ủy ban nhân dân phường Nguyên Bình, thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa giám sát, giáo dục.

- Án phí: Bị cáo Hồ Xuân T phải chịu 200.000đ tiền án phí HSST.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 80/2020/HS-ST ngày 30/07/2020 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:80/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tĩnh Gia (cũ) - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về