Bản án 80/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN MINH, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 80/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 106/2020/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2020 về việc “ ly hôn, tranh chấp nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 117/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 28 tháng 8 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số: 96/2020/QĐST-HN ngày 14/9/2020 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Lê Minh T, sinh năm 1986 (vắng mặt, có đơn xin vắng mặt);

Địa chỉ: ấp 7 X I, xã Đ H, huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang.

* Bị đơn: Anh Đinh Văn H, sinh năm 1983 (vắng mặt);

Địa chỉ: ấp 7 X, xã Đ H, huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 09/3/2020 và các lời khai tại Tòa án nguyên đơn chị Lê Minh T trình bày và yêu cầu như sau:

Chị T và anh H chung sống vào năm 2012 và đăng ký kết hôn vào năm 2015, tại UBND Đ H, huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang. Trong quá trình chung sống không hợp nhau, anh H ham mê cờ bạc, không lo làm ăn, không phụ giúp gia đình về kinh tế, anh H còn dùng nhiều thủ đọa đe dọa và trấn lột lấy tiền của chị, anh H càng ngày càng ăn chơi nhiều hơn, từ đó chị và anh H ly thân từ tháng 6/2019 đến nay.

- Về con chung: Có một người con chung tên Đinh Ngọc Khánh Băng, sinh ngày 29/5/2013, hiện nay đang sống chung với chị T.

- Về tài sản chung: Không có tài sản chung.

- Về nợ chung: Không nợ ai.

Nay chị T yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

- Về hôn nhân: Chị xin được ly hôn với anh Đinh Văn H .

- Về con chung: Chị T yêu cầu được nuôi con chung tên Đinh Ngọc Khánh B, sinh ngày 29/5/2013, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản: Không có tài sản chung, không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ: Không nợ ai, không yêu cầu giải quyết.

* Bị đơn anh Đinh Văn H vắng mặt, không có lời trình bày.

* Tại phiên tòa:

- Nguyên đơn chị Lê Minh T và bị đơn anh Đinh Văn H vắng mặt, không có lời trình bày.

- Kiểm sát viên phát biểu: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, nguyên đơn thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, bị đơn thực hiện chưa đúng theo quy định của pháp luật.

Hướng giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Lê Minh T được ly hôn với anh Đinh Văn H; Giao con chung tên Đinh Ngọc Khánh B, sinh ngày 29/5/2013, cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng, chị T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét; tài sản và nợ chung không tranh chấp và không nợ ai nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo hoãn phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải cho bị đơn anh Đinh Văn H, nhưng anh Đinh Văn H đều vắng mặt không lý do, nên được xác định vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại Điều 220 của Bộ luật tố tụng dân sự và tống đạt hợp lệ cho anh H nhưng anh H vắng mặt lần thứ nhất không lý do nên Hội đồng xét xử Quyết định hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Sau khi hoãn phiên tòa, Tòa án tống đạt hợp lệ Quyết định hoãn phiên tòa cho anh H nhưng anh H vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh H theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự [2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Minh T và anh Đinh Văn H chung sống với nhau vào năm 2012, có đăng ký kết hôn vào 2015, tại UBND Đ H, huyện A M, tỉnh K G nên hôn nhân là hợp pháp. Trong quá trình chung sống vợ chồng không hòa hợp nhau, đến tháng 06/2019 chị T và anh H ly thân cho đến nay. Xét thấy, theo lời trình bày của chị T và biên bản xác minh ngày 14/8/2020 thì mâu thuẫn giữa chị T và anh H là do anh H không lo làm ăn, anh H có tham gia tệ nạn xã hội, từ đó chị T và anh H thường hay cự cãi dẫn đến ly thân nhau. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu về hướng giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T đối với anh H. Xét thấy mục đích hôn nhân giữa chị T và anh H không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, mâu thuẫn ngày càng xảy ra trầm trọng. Vì vậy, sau khi thảo luận, nghị bàn, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên và yêu cầu của chị T, cho chị T được ly hôn với anh H.

[3] Về quan hệ con chung: Chị T xác định, chị và anh H có một người con chung tên Đinh Ngọc Khánh B, sinh ngày 29/5/2013, hiện nay chị T đang nuôi dưỡng, chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, tại biên bản lấy lời khai ngày 17/8/2020 cháu Đinh Ngọc Khánh B có nguyện vọng được sống chung với chị T. Kiểm sát viên đề nghị giao con chung cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng. Xét thấy thu nhập hàng tháng của chị T là đủ điều kiện, chi phí để nuôi con nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T và đề nghị của Kiểm sát viên, giao con chung tên Đinh Ngọc Khánh B, sinh ngày 29/5/2013 cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Chị T xác định, không có tài sản và nợ chung, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Lê Minh T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 235 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; khoản 1, khoản 2 Điều 81, Diều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu của chị Lê Minh T.

- Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Lê Minh T được ly hôn với anh Đinh Văn H.

- Về quan hệ con chung: Chị Lê Minh T được tiếp tục nuôi con chung tên Đinh Ngọc Khánh B, sinh ngày 29/5/2013.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Đinh Văn H không cấp dưỡng nuôi con.

- Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Chị T xác định không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về án phí: Chị Lê Minh T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn 300.000 đồng, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm, theo biên lai thu số 0007771 ngày 04/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Minh. Chị T đã nộp xong.

- Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm vắng mặt nguyên đơn chị Lê Minh T và bị đơn anh Đinh Văn H. Báo cho chị T và anh H biết, chị T và anh H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 80/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:80/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Minh - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về