Bản án 80/2018/HS-ST ngày 20/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 80/2018/HS-ST NGÀY 20/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 86/2018/TLST-HS, ngày 31 tháng 10 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 281/2018/QĐXXST-HS, ngày 05 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo: 

Phạm Nguyễn Phúc M, sinh năm 1993, tại Đồng Tháp; Nơi cư trú: PSố 102, đường L, khóm M, phường Phú, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: sửa chữa điện thoại; trình độ học vấn: 11/12, dân tộc: kinh, giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Hồng H, sinh năm 1961 và bà Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1960; bị cáo có 02 chị em; bị cáo là con út; Tiền án, tiền sự: không; Tạm giữ; Tạm giam: không. Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt

Nhân chứng: Nguyễn Kim K, sinh năm 1962. Có mặt

Địa chỉ: Ấp An Thạnh, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ ngày 26/7/2018, Phạm Nguyễn Phúc M muốn mua ma túy đá sử dụng nên điều khiển xe mô tô mang biển số 66K9-9297 đến khu vực cầu Sáu Quốc, xã Hòa An, thành phố Cao Lãnh gặp đối tượng tên Hồ (không rõ nhân thân) mua 300.000 đồng ma túy đá, do trước đó có sử dụng ma túy đá chung với Hồ và nghe Hồ nói có bán ma túy, Hồ đồng ý và yêu cầu M đưa thêm 50.000 đồng đổ xăng nên M đưa Hồ 350.000 đồng. Hồ nói M khoảng 15 phút sau quay lại lấy ma túy nên Minh điều khiển xe chạy lòng vòng khoảng 15 phút quay lại khu vực cầu Sáu Quốc gặp Hồ. Lúc này, Hồ chỉ phần (tép) ma túy đá quấn trong tờ giấy để chổ gốc cây bên phải cầu cho M, lấy phần ma túy M điều khiển xe về nhà. Đến 20 giờ 15 phút cùng ngày, khi M đang điều khiển xe trên Quốc lộ 30, thuộc tổ 10, khóm 1, phường 1, thành phố C thì bị Công an thành phố bắt quả tang thu giữ trong túi quần phía trước bên trái 01 bịch nylon màu trắng được hàn kín, bên ngoài quấn tờ giấy có dòng chữ Dowasen – Chi nhánh cấp nước số 2, bên trong bịch nylon chứa nhiều tinh thể rắn màu trắng (niêm phong ký hiệu A1), 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen gắn sim số 09331005536, 01 giấy phép lái xe số AX942150 tên Phạm Nguyễn Phúc M, 01 giấy đăng ký xe mô tô số 0115790 tên Nguyễn Kim K cùng xe mô tô biển số 66K9-9297 màu đen, số máy 5WP3-01394.

Tại kết luận giám định số 528/KL-KTHS ngày 30/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp, kết luận: Tinh thể rắn chứa trong 01 bịch nylon hàn kín được niêm phong ký hiệu A1 là chất ma túy, khối lượng 0,1716 gam, loại Methamphetamine (niêm phong lại chất ma túy còn lại sau giám định ký hiệu 528 ngày 30/7/2018).

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen gắn sim số 0933100536, qua kiểm tra không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 giấy đăng ký xe mô tô số 0115790 tên Nguyễn Kim K cùng xe mô tô biển số 66K9-9297 màu đen, số máy 5WP3-01394 là của bà Nguyễn Kim K, sinh năm 1962, ngụ Ấp An Thạnh, xã H, huyện L là Dì của M, M mượn xe này sử dụng vào ngay 26/7/2018 nhưng bà Kiều không biết M dùng vào việc phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho bà Kiều vào ngày 16/9/2018 và trả lại cho M 01 giấy phép lái xe số AX942150 vào ngày 11/10/2018.

Tại bản cáo trạng số 88/CT-VKSND-TPCL ngày 29/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Cao Lãnh đã truy tố bị cáo Phạm Nguyễn Phúc M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo Phạm Nguyễn Phúc M đã thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo, phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, biên bản kiểm tra điện thoại cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ.

Do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Phạm Nguyễn Phúc M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, gia đình bị cáo có ông nội là ông Phạm Văn X được Nhà nước tặng thưởng Huân Chương Chiến Sĩ Vẻ Vang hạng nhì là tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Phạm Nguyễn Phúc M mức án từ 01 năm đến 02 năm tù.

Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị Tòa án tuyên tịch thu tiêu hủy chất ma túy còn lại sau giám định trong gói niêm phong ký hiệu 528 ngày 30/7/2018.

Trả lại cho bị cáo M 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen gắn sim số 0933100536

Xét đề nghị của Viện kiểm sát là phù hợp nên chấp nhận.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo Phạm Nguyễn Phúc M xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Cao Lãnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Lãnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Phạm Nguyễn Phúc M bản thân chưa có tiền án, tiền sự, tuổi đời còn trẻ. Lẽ ra, bị cáo có nghề sửa chữa điện thoại có thu nhập ổn định nuôi sống bản thân. Nhưng thích đua đòi ăn chơi cùng bạn bè xấu nên bị cáo đã lao vào con đường nghiện ngập.

[3] Tại phiên tòa, Viện kiểm sát xác định bị cáo Phạm Nguyễn Phúc M là người đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy trong người với khối lượng 0,1716 gam, loại Methamphetamine.

Việc Viện kiểm sát truy tố bị cáo Phạm Nguyễn Phúc M ra trước phiên tòa về hành vi phạm tội như đã nêu trên là có căn cứ, cũng như lời luận tội của kiểm sát viên đối với bị cáo là đúng và phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, biên bản kiểm tra điện thoại cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những cơ sở trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận lời luận tội của kiểm sát viên đối với bị cáo M là đúng và hành vi của bị cáo là có tội.

Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự

 “1/ Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trư ng hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”

a/………….

c/ Heroin, Cocaine, Methemphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1gam đến 05gam.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo M là nguy hiểm cho xã hội, làm cho người dân trên địa bàn thành phố C bất bình về việc làm của bị cáo, đặc biệt là gia đình của bị cáo, vì con nghiện chỉ biết sử dụng ma túy để thỏa mãn cho bản thân, không lo lắng cho gia đình, điều mà xã hội hiện nay đang lên án đối với lực lượng thanh niên trẻ. Nay đưa bị cáo ra xét tại phiên tòa hôm nay là cần thiết.

Bị cáo Minh là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có sức khỏe để lao động nuôi sống bản thân, nhưng do bản thân nghiện ma túy, nên đã có hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Do đó, bị cáo M phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định là cần thiết, nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ích gia đình và xã hội đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[5] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét các tình tiết: Về tình tiết tăng nặng: không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, có ông nội là ông Phạm Văn X được Nhà nước tặng thưởng Huân Chương Chiến Sĩ Vẻ Vang hạng nhì là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. luật.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Nguyễn Phúc M phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Nguyễn Phúc M 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Tịch thu tiêu hủy chất ma túy còn lại sau giám định trong gói niêm phong ký hiệu 528 ngày 30/7/2018. Trả lại cho bị cáo M 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen gắn sim số 0933100536

Về án phí:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Bị cáo Phạm Nguyễn Phúc M phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án..

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

335
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 80/2018/HS-ST ngày 20/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:80/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về