TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 80/2018/HSST NGÀY 07/02/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 07/02/2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện ĐB, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 82/2018/HSST ngày 12/01/2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 80/2018/QĐXX-HS ngày 24/01/2018 đối với bị cáo:
Họ và tên. Nguyễn Duy S. Tên gọi khác: Không. Sinh năm 1970. Tại tỉnh V.
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm C, xã Y, huyện Y2, tỉnh V. Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt nam. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Làm ruộng. Trình độ văn hoá: 7/10.
Con ông: Nguyễn Duy C (đã chết), và con bà: Nguyễn Thị K, sinh năm 1928.
Gia đình bị cáo có 08 anh chị em, bị cáo là con thứ 6 trong gia đình.
Bị cáo có vợ: Dương Thị H, sinh năm 1972 (đã ly hôn năm 2009). Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 1991, con nhỏ sinh năm 1994.
Tiền án, tiền sự: Không: Nhân thân: Ngày 27/12/1997 bị Tòa án nhân dân Tỉnh V xử phạt 2 năm tù về tội" Trộm cắp tài sản của công dân". Ngày 07/5/2003, bị Toà án nhân dân thị xã ĐBP, tỉnh Điện Biên xử phạt 04 tháng tù về tội " Trộm cắp tài sản". Ngày 10/3/2004 bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc 24 tháng. Ngày 15/3/2007 bị Tòa án ND thành phố ĐBP xử phạt 24 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Ngày 07/8/2009 bị Tòa án ND tỉnh L xử phạt 18 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản". Các bản án, quyết định đã được xóa án tích. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 05/10/2017, bị cáo có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ ngày 05/10/2017, Nguyễn Duy S đi xe ôm từ gầm cầu M T, thành phố Đ B P đến đội 6, xã T, huyện ĐB mục đích tìm mua hêrôin để sử dụng cho bản thân. Khi đến đầu đội 6, xã T, S gặp một người đàn ông dân tộc Thái khoảng 30 tuổi không rõ lai lịch. Qua trao đổi, S đã nhờ người đàn ông đó mua hộ được 01 gói hêrôin bên ngoài gói bằng hai lớp nilon màu trắng và màu hồng hơ lửa hàn kín với giá 100.000đ. Sau khi mua được, S cầm gói hêrôin ở tay trái ra bờ ao thuộc đội 6 xã T để sử dụng. Hồi 14 giờ cùng ngày, khi S chưa kịp sử dụng thì bị Công an huyện Điện Biên bắt quả tang, thu giữ trên tay trái của S 01 gói hêrôin.
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 05/10/2017 đã xác định: Toàn bộ số cục, bột màu trắng thu giữ của bị cáo Nguyễn Duy S có khối lượng là 0,13 gam.
Tại bản kết luận giám định số 57/GĐ-PC54 ngày 08/11/2017 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định trích ra từ vật chứng thu giữ của Nguyễn Duy S là chất ma túy loại hêrôin.
Tại bản cáo trạng số 28/QĐ-VKS-HS ngày 11/01/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐB đã truy tố bị cáo Nguyễn Duy S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015.
Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện ĐB vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 194/ BLHS năm 1999; Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Khoản 3 Điều 7/BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017): Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Duy S từ 18 tháng đến 24 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điề 47/BLHS 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015 về xử lý vật chứng.
Căn cứ Khoản 2 Điều 136/ BLTTHS năm 2015 và Nghị quyết 326 Bị cáo phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.
Bị cáo cũng hoàn toàn nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của VKSND huyện ĐB không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài xin giảm nhẹ hình phạt không có ý kiến gì khác.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về hành vi và các Quyết định của cơ quan người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, Điều tra viên, kiểm sát viên. Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục đảm bảo theo qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì do đó các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng là hợp pháp được chấp nhận.
[2].Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Duy S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Mọi lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận điều tra, các bản cung có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo.
[3].Xét hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Nguyễn Duy S là đối tượng nghiện chất ma túy bị cáo đã đi xe ôm từ gầm cầu M, thành phố ĐBP, đến đội 6 xã T, huyện ĐB mục đích đi tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Bị cáo đã nhờ một người đàn ông dân tộc thái khoảng 30 tuổi không biết tên tại đội 6, xã T mua hộ được 01 gói hêrôin, với giá 100.000đ chưa kịp sử dụng thì bị bắt quả tang khi đang tàng trữ trên người 0,13 gam hêrôin. Hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành và được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp. Vật chứng thu giữ của bị cáo đã được cân xác định khối lượng là 0,13 gam, kết luận giám định là hêrôin.
Với hành vi tàng trữ 0,13 gam hêrôin mục đích để sử dụng của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại Khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) có khung hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù, nhưng theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 thì hành vi trên có khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù. So với Bộ luật hình sự năm 1999 thì mức hình phạt quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015 ( sửa đổi bổ sung năm 2017) đã có hiệu lực thi hành là có lợi hơn cho bị cáo. Căn cứ vào Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017, áp dụng theo hướng có lợi cho bị cáo. HĐXX căn cứ Khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 để xem xét áp dụng mức hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội củ bị cáo
[4]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho thấy: Bị cáo đã bị Tòa án nhân dân Tỉnh V, Tòa án nhân dân thị xã ĐBP, Toà án nhân dân tỉnh L, và Tòa án nhân dân thành phố ĐBP xử phạt tổng cộng 04 lần về các tội liên quan đến "Tộm cắp tài sản" và tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Năm 2004 bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc 24 tháng. Cả 04 bản án và quyết định này đều đã được xóa án tích. Bị cáo đã phạm tội rất nhiều lần mặc dù các bản án, quyết định đã được xóa án tích nhưng điều này cho thấy thân nhân của bị cáo rất xấu. Khi được trở về địa phương không lấy đó làm bài học cho bản thân lại tiếp tục phạm tộị cho thấy bị cáo coi thường pháp luật. Tuy nhiên trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS năm 2015. HĐXX xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy nên cần áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để tiếp tục giáo dục, cải tạo và có thời gian cai nghiện.
Còn người đàn ông dân tộc Thái bị cáo đã gặp tại đội 6 xã T theo bị cáo khai đã nhờ người đó mua hộ hêrôin cho bị cáo, do không biết tên địa chỉ nên cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được. HĐXX không xem xét.
[5]. Vật chứng của vụ án cần áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS 2015 về xử lý vật chứng. Tịch thu tiêu huỷ 0,13 gam hêrôin đã trích 0,03 gam gửi giám định không hoàn lại.
[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định tại Điều 136/BLTTHS và Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Khoản 3 Điều 7/BLHS năm 2015(sửa đổi bổ sung năm 2017); Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14.
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Duy S phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”
2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy S: 20 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ (05/10/2017).
3. Căn cứ: Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015.
-Tịch thu tiêu huỷ 0,13 gam hêrôin đã trích 0,03 gam gửi giám định không hoàn lại.(Vật chứng đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện ĐB chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự huyện ĐB vào ngày 19/01/2018).
4. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí lệ phí Tòa án bị cáo Nguyễn Duy S phải chịu 200.000đ án phí HSST.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 07/02/2018).
Bản án 80/2018/HSST ngày 07/02/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 80/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/02/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về