Bản án 80/2018/HNGĐ-ST ngày 28/08/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH LỘC, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 80/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/08/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 28 tháng 8 năm 2018 tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá xét xử công khai sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 38/2018/TLST- HNGĐ ngày 03 tháng 05 năm 2018 về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2018/QĐST - HNGĐ ngày 23 tháng 7 năm 2018 và quyết định hoãn phiên tòa số 11 /2018/QĐST – HNGĐ ngày 08/8/2018 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Chị Trịnh Thị H – Sinh năm 1986 (Có mặt)

Trú quán: Thôn 2, xã Th, huyện V, tỉnh Thanh Hóa.

2. Bị đơn: Anh Đinh Văn Q – Sinh năm 1978(Vắng mặt lần thứ 2)

Trú quán: Thôn 2, xã Th, huyện V, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 10/4/2018, biên bản lấy lời khai ngày 15/5/2018 và các tài liệu, chứng cứ khác của chị Trịnh Thị H (nguyên đơn) giao nộp thể hiện nội dung vụ án như sau: Chị Trịnh Thị H kết hôn với Anh Đinh Văn Q vào ngày 08 tháng 5 năm 2007 trên cơ sở tự nguyện, đã được UBND xã Th, huyện V, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn. Quá trình chung sống với nhau vợ chồng đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do kinh tế khó khăn, vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm sống nên dẫn đến cãi vã lẫn nhau, Chị H đã phải thuê nhà ở từ tháng 01 năm 2017 đến nay. Nay Chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị H có nguyện vọng được ly hôn Anh Đinh Văn Q.

Về con chung: Vợ chồng Chị Trịnh Thị H và anh Đinh Văn Q có 01 con chung là Đinh Thanh K - sinh ngày 27/8/2010.

Khi ly hôn chị H đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con và không yêu cầu Anh Đinh Văn Q đóng góp tiền nuôi con chung cùng chị.

Về tài sản chung của vợ chồng: Chị H khai vợ chồng chị không có tài sản gì chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về công nợ: Chị H khai vợ chồng chị không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nợ nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lộc kết hợp với chính quyền địa phương xã Th đã nhiều lần đến nhà Anh Đinh Văn Q để chuyển giao thông báo về việc thụ lý vụ án, lấy lời khai, chuyển giao giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, thông báo mở lại phiên tòa. Anh Q đều từ chối không nhận, từ chối khai báo, cố tình trốn tránh, vắng mặt không có lý do. Tại đơn anh Q đề ngày 11/5/2018 gửi cho Tòa án anh Q khai vợ chồng có mâu thuẫn trong 03 năm gần đây nhưng anh không có ý định bỏ vợ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận; Trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ, ý kiến của đương sự có mặt tại phiên toà. Sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Trịnh Thị H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết về ly hôn đối với anh Đinh Văn Q, cư trú tại huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Nên xác định đây là vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa theo quy định tại khoản 1điều 28, điểm a khoản 1 điều 35 và điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh Q đã được triệu tập, tống đạt các quyết định hợp lệ nhưng vẫn cố tình vắng mặt đến lần thứ 2. Vì vậy Tòa án vẫn tiến hành xét xử là phù hợp với quy định khoản 1 điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh Đinh Văn Q là hôn nhân hợp pháp bởi lẽ: Chị H và anh Q kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 08 tháng 5 năm 2007. Quá trình chung sống với nhau vợ chồng đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng giữa chị H và anh Q không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị H đề nghị được ly hôn anh Q.

Xét thấy: Quá trình chung sống tình cảm vợ chồng giữa chị Trịnh Thị H và anh Đinh Văn Q mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, chị H và anh Q đã sống ly từ tháng 01 năm 2017 đến nay. Vì vậy xử cho chị H được ly hôn anh Q là phù hợp với khoản 1 điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

ُ[3] Về con chung: Chị Trịnh Thị H và anh Đinh Văn Q có 01 con chung tên là: Đinh Thanh Kỳ - sinh ngày 27/8/2010. Nếu ly hôn chị H xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh Q cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng chị

Hội đồng xét xử xét thấy: Hiện tại cháu K đang được chị H nuôi dưỡng, chăm sóc. Điều kiện sinh hoạt và học tập của cháu K cũng được đảm bảo. Nguyện vọng của cháu K muốn được ở với mẹ. Vì vậy giao cháu K cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của điều 81 luật Hôn nhân và gia đình. Anh Q không phải đóng góp phí tổn nuôi con chung cùng chị H vì chị H không yêu cầu.

[4] Về tài sản chung: Trong quá trình sống chung các tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản chị Trịnh Thị H và anh Đinh Văn Q không có gì chung, đồng thời không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nợ nên chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết do vậy miễn xét.

[5] Về án phí: Chị Trịnh Thị H là nguyên đơn nên phải chịu toàn bộ án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng: Căn cứ vào khoản 1 điều 51, điều 56, điều 57, điều 58, điều 81, điều 82, điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 1 điều 24, điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về  mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

- Về hôn nhân: Chị Trịnh Thị H được ly hôn anh Đinh Văn Q.

- Về con chung: Giao cháu Đinh Thanh Kỳ - Sinh ngày 27 tháng 8 năm 2010 cho chị Trịnh Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Q không phải đóng góp phí tổn nuôi con chung cùng Chị H.

Sau khi ly hôn anh Q có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

- Về án phí: Chị Trịnh Thị H phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu tiền số AA/2013/0002318 ngày 03/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Chị H đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 80/2018/HNGĐ-ST ngày 28/08/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:80/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Lộc - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về