TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 80/2017/HSST NGÀY 12/09/2017 VỀ TỘI HỦY HOẠI RỪNG
Ngày 12 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 79/2017/HSST ngày 27 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo:
Họ và tên: Ly A V; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1990.
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: bản H, xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên. Dân tộc: Mông; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Tin lành phúc âm.
Nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: Lớp 3/12.
Con ông: Ly A C, sinh năm: 1958; con bà: Giàng Thị Ch, sinh năm: 1963.
Bị cáo có vợ: Giàng Thị S, sinh năm: 1991 và có 04 người con; con lớn nhất sinh năm 2008, con nhỏ nhất sinh năm 2014.
Tiền án: Không; tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 29/3/2017 cho đến nay. Bị cáo được trích xuất áp giải có mặt tại phiên tòa.
* Người bào chữa cho bị cáo Ly A V: Ông Phạm Đình Khôi - Luật sư, công tác viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên, (có mặt).
* Nguyên đơn dân sự: Ban quản lý rừng phòng hộ huyện T. tỉnh Điện Biên. Địa chỉ trụ sở: Khối T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Điện Biên.
Ông Phạm Quốc H; chức vụ: Giám đốc là người đại diện theo pháp luật, (có mặt).
NHẬN THẤY
Bị cáo Ly A V bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Ly A V biết rõ rừng ở khu vực theo tiếng địa phương gọi là khu rừng “Thả Núa” thuộc bản H, xã M, huyện T là rừng phòng hộ đầu nguồn, Nhà Nước nghiêm cấm chặt phá, khai thác trái phép. Vì bản thân Ly A V đã nhiều lần được tham dự các cuộc họp dân bản H, do cán bộ thuộc các cơ quan Hạt kiểm lâm, Ban quản lý rừng phòng hộ huyện T, phối hợp với chính quyền xã M đến tuyên truyền, vận động khu vực rừng đó là rừng phòng hộ, cần bảo vệ, yêu cầu dân bản không đi chặt phá rừng để làm nương. Do điều kiện, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, diện tích đất nương gieo trồng ngô, lúa hiện có không đủ lương thực sử dụng cho gia đình, hằng năm đều bị thiếu đói. Trong khoảng thời gian từ đầu tháng 02 năm 2017, Ly A V thấy nhiều hộ dân sống cùng bản H, xã M, huyện T đã đi lên khu rừng phòng hộ trên và tự nhận và đánh dấu lấy một, hai khoảnh rừng để chặt phá trái phép lấy đất làm nương. Nên Vừ cũng nảy sinh ý định đi chặt phá rừng phòng hộ để lấy đất làm nương cho gia đình. Khoảng thời gian đầu tháng 02/2017 Ly A V đi lên khu rừng phòng hộ, tự chọn và đánh dấu cho mình một khoảnh rừng, đến cuối tháng 02/2017 Vừ một mình đem theo 01 con dao, 01 chiếc cưa máy chạy bằng xăng, mầu sơn đỏ - đen lên khu vực rừng đó tiến hành chặt phá trái phép. Ban đầu Vừ sử dụng dao phát cây nhỏ dưới tán, sau đó dùng cưa máy cắt hạ cây gỗ to, thời gian chặt phá khoảng hơn 10 ngày thì xong. V về nhà chờ cho khi nào cây khô mới tiến hành đi đốt để làm nương, nhưng chưa kịp đốt thì đã bị cơ quan chức năng phát hiện, triệu tập Ly A V đến cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo để làm rõ. Tại cơ quan điều tra V đã khai nhận rõ toàn bộ hành vi phá rừng trái phép để lấy đất làm nương của mình, Cơ quan điều tra đã tạm giữ của Vừ 01 chiếc cưa máy, 01 con dao là phương tiện Vừ sử dụng phá rừng trái phép.
Ngày 26/3/2017 Cơ quan điều tra công an huyện Tuần Giáo thành lập đoàn công tác liên ngành, khám nghiệm hiện trường, Ly A V đã trực tiếp dẫn đoàn công tác và trực tiếp chỉ vị trí, xác nhận diện tích mà V đã chặt phá trái phép. Qua khám nghiệm hiện trường đã xác định diện tích rừng do Ly A Vừ chặt phá trái phép là 12.090 m2 trạng thái rừng IIa, loại rừng phòng hộ, thuộc tiểu khu 606, khoảnh 5, thuộc bản H, xã M, huyện T, do Ban quản lý rừng phòng hộ huyện T quản lý, gây thiệt hại 100% cụ thể: tổng số cây thiệt hại trong diện tích là 556 cây, tổng trữ lượng 90,743 m3 (trong đó, sản lượng gỗ 45,698m3; củi tận thu 45,045 Ster), tổng giá trị thiệt hại là 91.265.400đ (chín mươi mốt triệu hai trăm sáu mươi lăm nghìn bốn trăm đồng). Trong quá trình điều tra Ly A V đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra số tiền 5.000.000đ nhằm bồi thường, khắc phục hậu quả thiệt hại đã gây ra.
Tại bản cáo trạng số: 57/QĐ-VKS-HS ngày 27/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã truy tố bị cáo Ly A V về tội: Hủy hoại rừng theo điểm b khoản 3 Điều 189 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn dân sự ông Phạm Quốc H trình bày: Căn cứ Quyết định số: 1501/QĐ-UBND ngày 01/12/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên về việc giao đất cho Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện T để quản lý, bảo vệ và phát triển rừng tại địa bàn các xã: T, P và M, huyện T, tỉnh Điện Biên. Trong thời gian từ ngày 17/02/2017 đến ngày 14/3/2017 Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện T phối hợp với chính quyền xã M; Kiểm lâm địa bàn phụ trách xã M đi kiểm tra đã phát hiện các khoảnh 4; 5; 8, tiểu khu 606 xã M. Quá trình điều tra đã xác định được Ly A V là người trực tiếp chặt phá, hủy hoại 12.090 m2 rừng phòng hộ, trạng thái rừng IIA, tại tiểu khu 606 khoảnh 5 thuộc địa bàn bản H, xã M, do Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện T quản lý, gây thiệt hại 91.265.400đ (chín mươi mốt triệu hai trăm sáu mươi lăm nghìn bốn trăm đồng). Do vậy, Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện T yêu cầu Ly A Vừ bồi thường thiệt hại cho Nhà nước số tiền là 91.265.400đ theo đúng quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 189; điểm b, điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù và không phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 4 Điều 189 Bộ luật hình sự. Áp dụng khoản 1 Điều 42 Bộ luật hình sự; Điều 584, Điều 585 và Điều 589 Bộ luật dân sự, buộc bị cáo bồi thường thiệt hại cho Nhà nước số tiền là 91.265.400đ (chín mươi mốt triệu hai trăm sáu mươi lăm nghìn bốn trăm đồng), do bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại 5.000.000đ, nên bị cáo phải tiếp tục bồi thường số tiền là 86.265.400đ (tám mươi sáu triệu hai trăm sáu mươi lăm nghìn bốn trăm đồng). Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu để bán sung quỹ Nhà nước 01 máy cưa nhãn hiệu OSHIMA màu sơn đỏ - đen, máy cưa đã qua sử dụng; tịch thu và tiêu hủy 01 con dao phát, cán gỗ; nộp trả Nhà nước số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng) bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại. Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, đề nghị miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm có giá ngạch cho bị cáo.
Người bào chữa cho bị cáo nhất trí với bản Cáo trạng, Luận tội của Viện kiểm sát về phần tội danh và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự. Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, được đi học đến lớp 3/12 nhận thức về pháp luật có phần hạn chế. Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ, đề nghị Hội đồng xét xử quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, không áp dụng hình phạt bổ sung, miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm có giá ngạch cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của bị cáo, người bào chữa và Kiểm sát viên.
XÉT THẤY
Tại phiên tòa bị cáo Ly A V đã khai và thừa nhận: Bị cáo biết rõ rừng thuộc bản H, xã M, huyện T là rừng phòng hộ đầu nguồn, Nhà nước nghiêm cấm chặt phá, khai thác trái phép. Nhưng do thiếu đất nương để để sản xuất nông nghiệp, vào khoảng thời gian cuối tháng 02/2017 bị cáo V đã sử dụng 01 chiếc cưa máy, 01 con dao chặt phá 12.090 m2 rừng phòng hộ, trạng thái rừng IIa, tại tiểu khu 606, khoảnh 5, thuộc địa bàn bản H, xã M, huyện T, do Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện T quản lý, gây thiệt hại 91.265.400đ (chín mươi mốt triệu hai trăm sáu mươi lăm nghìn bốn trăm đồng), mục đích để lấy đất làm nương. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản tạm giữ đồ vật, tài sản; biên bản khám nghiệm hiện trường và bản ảnh hiện trường ngày 26/3/2017, bản đồ trích lục khu vực phá rừng, biểu tổng hợp thống kê sản lượng, trữ lượng, mật độ trung bình trên ô tiêu chuẩn; bản kết luận định giá tài sản ngày 14/6/2017 của Hội đồng định giá tài sản huyện Tuần Giáo; Quyết định số: 1501/QĐ-UBND ngày 01/12/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên về việc giao đất cho Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện T để quản lý, đề nghị của Ban quản lý rừng phòng hộ huyện T tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa cũng như bản Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã truy tố đối với bị cáo. Tại phần tranh luận bị cáo hoàn toàn nhất trí với lời luận tội của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Do đó Hội đồng xét xử kết luận: Bị cáo Ly A V phạm tội “Hủy hoại rừng” theo điểm b khoản 3 Điều 189 Bộ luật hình sự.
Bởi vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo truy tố bị cáo theo tội danh, điểm, khoản và điều luật nêu trên là hoàn toàn chính xác.
Xét tính chất vụ án thấy: Bị cáo Ly A V và nhân dân ở xã M đã nhiều lần được cán bộ Kiểm lâm vận động, tuyên truyền bảo vệ rừng phòng hộ, nhưng bị cáo vẫn cố ý vi phạm. Bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, hành vi hủy hoại rừng phòng hộ của bị cáo đã xâm phạm đến môi trường được pháp luật bảo vệ, đã tác động tiêu cực đến môi trường sống của con người. Xâm hại đến sự bền vững và ổn định của môi trường như sói mòn, sạt lở đất, lũ lụt gây hậu quả nghiêm trọng cho môi trường sinh thái. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an xã hội và tình hình an ninh chính trị tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Nhưng vì mục đích cần có thêm đất nương để sản xuất nông nghiệp, bị báo đã bất chấp pháp luật hủy hoại rừng phòng hộ. Nên hành vi của bị cáo phải được xử lý nghiêm khắc theo quy định của pháp luật mới có tác dụng phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm.
Xét tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng, nhân thân thấy: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Ly A V đã thành khẩn khai báo và tự nguyện bồi thường, khắc phục một phần hậu quả, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, nên bị cáo được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự để Hội đồng xét xử có thể quyết định một mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt liền kề cho bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định Điều 48 Bộ luật hình sự. Bị cáo sinh ra và lớn lên tại bản H, xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên; được gia đình nuôi dậy cho ăn học đến hết lớp 3 sau đó nghỉ học, ở nhà lao động sản xuất cùng gia đình; năm 2008 kết hôn. Ngày 29/3/2017 bị khởi tố về tội Hủy hoại rừng. Cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn để giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật.
Ngoài hình phạt chính, lẽ ra các bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền theo quy định tại khoản 4 Điều 189 Bộ luật hình sự. Xét thấy điều kiện kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, bản thân bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nên không có khả năng thi hành. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo từ 03 năm 03 tháng đến 06 năm tù không phạt bổ sung bằng tiền và miễn án phí hình sự sơ thẩm, dân sự sơ thẩm có giá ngạch cho bị cáo. Hội đồng xét xử thấy là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo nên cần chấp nhận.
Xét đề nghị của người bào chữa cho bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Xét về phần dân sự: Nguyên đơn dân sự Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện T yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại cho Nhà nước số tiền là 91.265.400đ (chín mươi mốt triệu hai trăm sáu mươi lăm nghìn bốn trăm đồng). Xét thấy yêu cầu bồi thường thiệt hại của Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện T là có căn cứ theo quy định tại Điều 584, Điều 585, Điều 589 Bộ luật dân sự. Tại giai đoạn điều tra bị cáo đã tự nguyện bồi thường được 5.000.000đ (năm triệu đồng), hiện đang được lưu giữ tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo, do vậy bị cáo phải tiếp tục bồi thường số tiền còn lại là 86.265.400đ (tám mươi sáu triệu hai trăm sáu mươi lăm nghìn bốn trăm đồng).
Vật chứng vụ án: Đối với 01 máy cưa nhãn hiệu OSHIMA màu sơn đỏ - đen máy, cưa đã qua sử dụng cần tịch thu để bán sung quỹ Nhà nước; 01 con dao phát, cán gỗ cần tịch thu và tiêu hủy; đối với số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng) bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại cho Nhà nước, cần nộp trả Nhà nước theo quy định tại Điều 41 Bộ luật hình sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.
Án phí: Các bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và gia đình thuộc diện nghèo, cần căn cứ vào Điều 99 Bộ luật tố tụng Hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm có giá ngạch.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tội danh: Tuyên bố bị cáo Ly A V phạm tội Hủy hoại rừng.
2. Hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 189; điểm b, điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Ly A V 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 29/3/2017.
3. Về phần dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 42 Bộ luật hình sự; Điều 584, Điều 585 và Điều 589 Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo tiếp tục bồi thường thiệt hại cho Nhà nước số tiền là: 86.265.400đ (tám mươi sáu triệu, hai trăm sáu mươi lăm nghìn, bốn trăm đồng).
“Trường hợp bản án đã có hiệu lực pháp luật. Người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
4. Vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu để bán sung quỹ Nhà nước 01 máy cưa nhãn hiệu OSHIMA màu sơn đỏ - đen, máy cưa đã qua sử dụng; tịch thu và tiêu hủy 01 con dao phát, cán gỗ; nộp trả Nhà nước số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng) do bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại theo Phiếu nhập kho số: PNKVC 60 ngày 12/7/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo.
5. Án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn nộp toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm có giá ngạch cho bị cáo.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 12/9/2017). Nguyên đơn dân sự được quyền kháng cáo bản án về phần bồi thường thiệt hại trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 12/9/2017).
Bản án 80/2017/HSST ngày 12/09/2017 về tội hủy hoại rừng
Số hiệu: | 80/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/09/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về