TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 80/2017/HS-ST NGÀY 03/08/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 03 tháng 8 năm 2017, tại Nhà văn hóa khu 1, xóm Thủy, phường Liên Bảo, Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 78/2017/HS-ST ngày 18 tháng 7 năm 2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 80/2017/HSST- QĐ ngày 19 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo:
Phùng Văn T, sinh năm 1986; nơi cư trú: Tổ dân phố T, phường K, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; bố đẻ Phùng Văn V, mẹ đẻ Hoàng Thị Đ; vợ là Nguyễn Thị H và có 01 con;
Tiền án: Có 01 tiền án, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 103/2015/HSST ngày 26/08/2015, Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt bị cáo 02 năm tù về tội: “Trộm cắp tài sản”, ngày 24/01/2017 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù; tiền sự: Có 03 tiền sự, ngày 11/08/2010, Công an phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với bị cáo, số tiền 150.000đ về hành vi trộm cắp tài sản, đến nay bị cáo chưa nộp phạt; ngày 18/11/2014, Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên ra Quyết định số 20/QĐ-TA đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm Giáo dục Lao động xã hội tỉnh Vĩnh Phúc đối với bị cáo, thời hạn 24 tháng kể từ ngày 05/12/2014, đến ngày 02/03/2015 T được Trung tâm giáo dục Lao động xã hội tỉnh Vĩnh Phúc bàn giao lại cho gia đình vì ốm nặng (viêm dạ dày cấp/HIV); ngày 21/05/2015, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Vĩnh Yên ra quyết định khởi tố bị can và lệnh bắt tạm giam về hành vi trộm cắp tài sản, Trung tâm giáo dục Lao động xã hội đã cắt quân số đối với bị cáo theo Bản án số 103/2015/HSST ngày 26/08/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên; ngày 25/01/2015, Công an phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên ra quyết định xử phạt hành chính đối với bị cáo, số tiền 1.500.000đ về hành vi trộm cắp tài sản, nay bị cáo chưa nộp phạt; nhân thân: Ngày 26/06/2006, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã Vĩnh Yên ra Quyết định số 567/QĐ-CT đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm Giáo dục Lao động xã hội tỉnh Vĩnh Phúc thời hạn 24 tháng, ngày 28/10/2008, bị cáo chấp hành xong.Tại Bản án số 109/2010/HSST ngày 28/10/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, xử phạt bị cáo 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 22/05/2011, chấp hành xong hình phạt tù; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 13/5/2017 cho đến nay (có mặt).
Người bị hại: Bà Nhữ Thị N, sinh năm 1967; nơi cư trú: Khu Hành chính 1, phường L, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).
NHẬN THẤY
Bị cáo Phùng Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 07 giờ ngày 15/ 03/ 2017, Phùng Văn T đi xe đạp từ nhà đến Trung tâm phòng chống HIV/AIDS tỉnh Vĩnh Phúc ở xã Định Trung, thành phố Vĩnh Yên để uống thuốc Methanol. Sau khi uống thuốc xong, Phùng Văn T đạp xe về, khi đi qua nhà bà Nhữ Thị N quan sát thấy cửa nhà đang mở, bên trong nhà có 01 chiếc xe đạp địa hình đang dựng ở bên phải góc tường và không có người trông giữ nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản, Phùng Văn T đạp xe về nhà cất xe rồi đi bộ một mình, khi đến nơi thấy cửa nhà vẫn mở, xung quanh không có ai liền đi vào nhà bà N và dắt chiếc xe đạp ra cửa rồi lên xe đạp ra khỏi sân khoảng 10 mét thì bà N đang lau nhà ở trên tầng 2 nhìn xuống phát hiện, hô hoán. Thấy vậy, Phùng Văn T đạp xe bỏ chạy thì bị người dân xung quanh truy đuổi đến đường Phạm Hồng Thái, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, thì bị anh Bùi Huy H ở khu hành chính 1, phường Liên Bảo đuổi kịp, Phùng Văn T hốt hoảng bỏ lại xe đạp và chạy trốn.
Tại Kết luận định giá số: 42/KL-HĐĐG ngày 23/3/2017, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: Trị giá 01 chiếc xe đạp có đặc điểm như trên là 1.800.000đ.
Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Ngày 15/5/2017, Cơ quan điều tra đã trả lại 01 chiếc xe đạp trên cho bà N. Bà N nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác.
Tại Cáo trạng số: 82/KSĐT-KT ngày 18/7/2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên đã truy tố Phùng Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Phùng Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trên.
Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phùng Văn T từ 12 đến 15 tháng tù. Áp dụng khoản 2 Điều 41 của Bộ luật Hình sự, Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự xác nhận Cơ quan điều tra đã thu giữ và trả cho bà N 01 chiếc xe đạp địa hình, nhãn hiệu Galaxy, màu xanh – trắng là hợp pháp.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,
XÉT THẤY
Lời khai nhận tội của bị cáo Phùng Văn T tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của người bị hại, người làm chứng về thời gian, địa điểm, mục đích, động cơ phạm tội và các tang vật đã thu giữ được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận:
Khoảng 9 giờ 15 phút ngày 15/03/2017, tại gia đình nhà bà N ở khu hành chính 1, phường L, thành phố V, Phùng Văn T đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 chiếc xe đạp địa hình, nhãn hiệu Galaxy, màu xanh – trắng thì bị phát hiện và bắt quả tang. Trị giá 1.800.000đ.
Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự có khung hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương, làm nhân dân lên án và bất bình. Do đó, cần phải xử lý thật nghiêm minh nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.
Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy: Phùng Văn T là người đã thành niên, bản thân có sức khỏe và có hiểu biết nhất định về pháp luật nhưng không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân để làm ăn chân chính mà lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác với mục đích để bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. Trị giá tài sản trộm cắp ngày 15/3/2017 có giá trị dưới 2.000.000 đ nhưng trước khi phạm tội bị cáo đã có 01 tiền án và 02 tiền sự về hành vi chiếm đoạt tài sản. Tiền án chưa được xóa án tích, tiền sự chưa hết thời gian được coi là chưa bị xử lý, bị cáo lại tiếp tục phạm tội nên bị cáo phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng xem xét bị cáo phạm tội gây thiệt hại không lớn, tài sản đã được thu hồi; quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng điểm g, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Xét tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng, nhưng hành vi được thực hiện với lỗi cố ý; hiện tại trên địa bàn thành phố Vĩnh Yên các tội phạm như vậy có chiều hướng gia tăng, đây là nguyên nhân làm mất ổn định tình hình an ninh chính trị tại địa phương. Do đó, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.
Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 138 của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định bị cáo không có công ăn việc làm, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Ngày 15/5/2017, Cơ quan điều tra đã trả lại 01 chiếc xe đạp trên cho bà N. Bà N nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Phùng Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phùng Văn T 12 (mười hai) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 13/5/2017).
Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Phùng Văn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc niêm yết Bản án tại địa phương nơi thường trú./.
Bản án 80/2017/HS-ST ngày 03/08/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 80/2017/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về