TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 79/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/08/2021 VỀ LY HÔN
Ngày 27/8/2021 tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 246/2021/TLST- HNGĐ ngày 13 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 90 / 2021/QĐXX - ST ngày 12/8/2021 giữa các đương sự:
*Nguyên Đơn: Anh Âu Xuân H, sinh năm 1984;
Địa chỉ: Xóm Đ, xã H, Huyện Đ, tỉnhThái Nguyên.
Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: Công nhân; Văn hóa: 12/12.
(Có mặt tại phiên tòa)
*Bị Đơn: Chị Lê Thị Thanh H, sinh năm 1984;
Địa chỉ: Tổ X, phường T, thành phố T.N, tỉnh Thái Nguyên.
Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: lao động tự do; Văn hóa: 12/12. (có đơn xin xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn anh Âu Xuân H trình bày: Anh và chị Lê Thị Thanh H kết hôn năm 2007 trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc, có được đăng ký kết hôn tại UBND phường T, thành phố T.N, tỉnh Thái Nguyên. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc thời gian đầu đến khoảng năm 2015 phát sinh mâu thuẫn do chị H thay đổi tính nết, mải chơi, không tu chí làm ăn, chăm lo cho gia đình, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2017 đến nay không ai quan tâm đến ai, chị H đã chuyển về tổ X, phường T sinh sống tại nhà mẹ đẻ.
Tại phiên tòa ngày hôm nay, anh H xác định không còn tình cảm vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin được ly hôn với chị H để giải phóng cho nhau.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Âu Thảo V, sinh ngày 04/12/2008 và Âu Dương P, sinh ngày 07/2/2011. Từ khi vợ chồng sống ly thân thì anh là người trực tiếp nuôi dạy con chung. Khi ly hôn, anh H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai 02 con chung đến khi con trưởng thành, (đủ 18 tuổi).
Về cấp dưỡng nuôi con: Xin tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung, nợ chung: Xin tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bản tự khai, bị đơn chị Lê Thị Thanh H trình bày: Chị kết hôn với anh Âu Xuân H năm 2007 trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc, có được đăng ký kết hôn tại UBND phường T, thành phố T.N, tỉnh Thái Nguyên. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc thời gian đầu đến khoảng năm 2015 phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2017 đến nay không ai quan tâm đến ai, chị đã cHển về tổ X, phường T sinh sống tại nhà mẹ đẻ.
Nay anh H có đơn xin ly hôn chị cũng xác định không còn tình cảm vợ chồng, nhất trí ly hôn để giải phóng cho nhau.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung Âu Thảo V, sinh ngày 04/12/2008 và Âu Dương P, sinh ngày 07/2/2011. Khi ly hôn chị nhất trí để anh H được trực tiếp nuôi dưỡng cả con đến khi đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác.
Về cấp dưỡng nuôi con: Vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã triệu tập, các đương sự tự khai đồng thời cho hai bên tiến hành hòa giải nhưng chị H có đơn xin vắng mặt không tham gia hòa giải. Vì vậy, vụ án phải đưa ra xét xử ngày hôm nay.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
1. Về tố tụng: Bị đơn có hộ khẩu thường trú tại thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên.
Bị đơn chị Lê Thị H vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 227 BLTTDS. Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn.
2. Về nội dung:
Về quan hệ hôn nhân: Anh Âu Xuân H kết hôn với chị Lê Thị Thanh H năm 2007, có đăng ký kết hôn tại UBND phường T, thành phố T.N, tỉnh Thái Nguyên nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp.
Về lý do xin ly hôn: Cả anh H và chị H đều xác định nguyên nhân dẫn đến việc ly hôn là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng đã sống ly thân nhau từ năm 2017 đến nay không ai quan tâm đến ai, anh H xin ly hôn, chị H nhất trí ly hôn để giải phóng cho nhau.
HĐXX thấy rằng: Mâu thuẫn giữa anh Âu Xuân H và chị Lê Thị Thanh H đã trầm trọng, quan hệ hôn nhân giữa các đương sự đã thực sự tan vỡ, hai vợ chồng đã sống ly thân nhau từ năm 2017 đến nay, việc duy trì quan hệ hôn nhân này cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai bên, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của anh H cho anh Âu Xuân H được ly hôn chị Lê Thị Thanh H là phù hợp với thực tế và phù hợp với quy định tại Điều 51, 56 luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[2]Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Âu Thảo V, sinh ngày 04/12/2008 và Âu Dương P, sinh ngày 07/2/2011. Khi ly hôn anh H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung và không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con, chị H cũng nhất trí để cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung sau khi vợ chồng ly hôn.
Hai con chung cũng có nguyện vọng được ở với anh H nếu bố mẹ ly hôn.
Theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình quy định:
“ 1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thoả thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; Trường hợp không thoả thuận được thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.
Hội đồng xét xử xét thấy: Từ khi vợ chồng sống ly thân nhau đến nay, anh H là người trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung, khi ly hôn chị H cũng nhất trí với yêu cầu nuôi con chung của anh H, nguyện vọng của con chung cũng muốn ở với anh H khi bố mẹ ly hôn. Do vậy để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung, tránh việc xáo trộn cuộc sống, sinh hoạt của con chung nên cần chấp nhận yêu cầu của anh H, giao cho anh H được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cả hai con chung đến khi đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác.
Chị H có quyền đi lại thăm nom con chung.
Về cấp dưỡng nuôi con: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết do các đương sự không có yêu cầu.
Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết do các đương sự không có yêu cầu.
[4]Về án phí: anh H phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
[5]Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Bởi các lẽ trên, Hội đồng xét xử sơ thẩm Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, 146, 147; khoản 2 Điều 207; khoản 1 Điều 227, Điều 273, Điều 483 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Các Điều 2,6,7,9 Luật thi hành án dân sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Âu Xuân H.
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Âu Xuân H được ly hôn chị Lê Thị Thanh H.
2. Về con chung: Giao cho anh H trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục nuôi dưỡng 02 con chung là Âu Thảo V, sinh ngày 04/12/2008 và Âu Dương P, sinh ngày 07/2/2011 đến khi con đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác.
Chị H có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung theo quy định của pháp luật.
Về cấp dưỡng nuôi con: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết do các đương sự không có yêu cầu.
3.Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết do các đương sự không có yêu cầu.
4. Về án phí: Anh Âu Xuân H phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước, được chuyển từ tiền tạm ứng án phí sang, biên lai thu số 0000454 ngày 13/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án.
5. Về quyền kháng cáo: Anh H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết tại chính quyền địa phương.
Bản án 79/2021/HNGĐ-ST ngày 27/08/2021 về ly hôn
Số hiệu: | 79/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/08/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về