Bản án 79/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 79/2020/HS-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 26 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 78/2020/TLST- HS, ngày 02/11/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 87/2020/QĐXXST - HS, ngày 12/11/2020 đối với bị cáo:

Lý Minh T, tên gọi khác: Không có, sinh ngày 23 tháng 11 năm 1983 tại huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn N, thị trấn N, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa:

11/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lộc Xuân T, sinh năm 1944 (đã chết) và bà Lý Thị B, sinh năm 1960; vợ: Lương Thị H, sinh năm 1988 (hiện nay đang sống ly thân), con: có 01 con sinh năm 2010; tiền án: Tại Bản án số 29/2013/HS-ST ngày 21/5/2013 của Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xử phạt bị cáo Lý Minh T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tiền sự: Không có; nhân thân: Đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự chưa được xóa án tích, đã bị xử phạt vi phạm hành chính đã được xóa tiền sự, chưa bị xử lý kỷ luật; bị tạm giữ từ ngày 17-6- 2020, tạm giam từ ngày 20-6-2020 đến nay, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Anh Lý Minh T, sinh năm 1981, địa chỉ: Thôn N, thị trấn N, huyện V, tỉnh Lạng Sơn, có mặt.

+ Anh Chu Văn M, sinh năm 2000, địa chỉ: Thôn N, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn, có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng + Anh Mông Văn H, vắng mặt.

+ Anh Lăng Văn B, vắng mặt.

+ Anh Lý Văn T, vắng mặt.

Người chứng kiến: Ông Lưu Bá D, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 16/6/2020, Lý Minh T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12V1 – 141.56 đi đến thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn gặp một người đàn ông lái xe ôm khoảng 40 tuổi (không rõ họ tên, tuổi, địa chỉ) mua 30 gói ma túy với giá 2.000.000 (hai triệu) đồng mục đích đem về sử dụng và bán cho những người nghiện kiếm lời. Sau khi mua được ma túy, Lý Minh T đã sử dụng đi 04 gói, các gói ma túy còn lại Lý Minh T cất giấu trong người. Khoảng từ 06 giờ đến 16 giờ ngày 17/06/2020, Lý Minh T đã mang các gói ma túy ra khu vực sân Chùa N thuộc thôn N, thị trấn N, huyện V, tỉnh Lạng Sơn để bán. Tại đây Lý Minh T đã bán được 09 gói ma túy với giá 100.000 (một trăm nghìn) đồng/gói cho những người nghiện chất ma túy, nhưng không biết tên tuổi địa chỉ của những người đã mua ma túy với Lý Minh T, chỉ biết tên một số người như sau: Vào khoảng 14 giờ 45 phút ngày 17/06/2020 Lý Minh T bán cho Mông Văn H, sinh năm 1984 trú tại thôn B, xã T, huyện V 01 gói ma túy. Đến khoảng 16 giờ, thì có Chu Văn M, sinh năm 2000 và Lăng Văn B, sinh năm 1992 cùng trú tại xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn đến mua ma túy với Lý Minh T, Chu Văn M bảo Lý Minh T bán cho 01 gói ma túy. Khi Chu Văn M đang đưa cho Lý Minh T 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 (năm trăm nghìn) đồng thì bị Tổ công tác Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn phát hiện bắt quả tang.

Đồ vật, thu giữ, tạm giữ:

- 01 (một) túi nilon màu trắng (loại túi đựng bơm kim tiêm) bên trong chứa 17 (mười bẩy) gói nhựa màu cam, bên trong mỗi gói đều chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy Heroine được niêm phong trong 01 phong bì thư ký hiệu bằng chữ viết tay “QT Lý Minh T”;

- Số tiền 950.000 (chín trăm năm mươi nghìn) đồng được niêm phong trong 01 (một) phong bì thư ký hiệu bằng chữ viết tay “Tiền Lý Minh T”;

- 01 (một) chứng minh nhân dân số 081001352 cấp ngày 06/8/2018 nơi cấp Công an tỉnh Lạng Sơn mang tên Lý Minh T;

- 01 (một) thẻ điều trị Methadone số 025.002.0803 cấp ngày 04/11/2019 mang tên Lý Minh T;

- 01 (một) chứng minh nhân dân số 082122183 cấp ngày 20/02/2011 nơi cấp Công an tỉnh Lạng Sơn mang tên Lăng Văn B;

- 01 (một) chứng minh nhân dân số 082373976 cấp ngày 02/10/2018 nơi cấp Công an tỉnh Lạng Sơn mang tên Chu Văn M;

- 01 (một) xe mô tô nhãn nhiệu Honda Vision màu đen cũ đã qua sử dụng biển kiểm soát 12V1 - 141.56; số máy: JF86E2155256, số khung:5838KY090825.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu đen đã qua sử dụng, có số Imei1: 868.784.034.876.771, Imei2: 868.784.034.876.763 bên trong lắp 01 sim Viettel và 01 sim Vinaphone.

Cùng ngày 17/06/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Lý Minh T tại thôn N, thị trấn N, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn phát hiện thu giữ trong phòng ngủ của Lý Minh T cụ thể như sau:

- 01 (một) mảnh giấy có một mặt màu trắng có diện rộng 8 cm x 8 cm;

- 01 (một) bật lửa ga màu vàng cam bề mặt có chữ “THỐNG NHẤT”;

- 03 (ba) ống hút nhựa màu vàng dài khoảng 02cm, mỗi ống nhựa đều bịt kín một đầu;

- 01 (một) ống hút nhựa màu trắng một đầu được vót nhọn dài khoảng 5cm. Tại bản Kết luận giám định số 185/KL-PC09 ngày 19/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng đựng trong 17 (mười bẩy) gói nhựa màu cam tất cả được niêm phong trong 01 (một) phong bì thư ghi chữ “QT Lý Minh T” gửi giám định đều là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,769 gam (đã trừ bì).

Tại bản Cáo trạng số 71/CT-VKS, ngày 02/11/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Lý Minh T về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa bị cáo Lý Minh T khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên và không khai báo bổ sung. Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội bản thân đã thực hiện là rất nghiêm trọng vi phạm pháp luật, nhưng do bản thân nghiện ma túy để có ma túy sử dụng cho bản thân bị cáo đã mua ma túy về sử dụng đồng thời bán lẻ ma túy cho những người nghiện để kiếm lời. Ngoài các lần bán ma túy cho những người nghiện vào ngày 17/6/2020, trước đó bị cáo còn được bán ma túy nhiều lần cho nhiều người nghiện khác nhưng không biết tên, tuổi địa chỉ và thời gian cụ thể. Chỉ biết tên một số người nghiện đã mua ma túy với bị cáo như: Chu Văn M mua ma túy 01 lần vào khoảng 12 giờ ngày 10/6/2020 và 01 lần vào ngày 17/6/2020 đã đưa tiền cho bị cáo nhưng chưa kịp cầm ma túy thì bị bắt; Lăng Văn B mua 01 lần vào khoảng 17 giờ ngày 15/6/2020; Mông Văn H mua 01 lần vào khoảng 15 giờ ngày 15/06/2020. Tổng số tiền ma túy đã bán được 950.000 (chín trăm năm mươi nghìn) đồng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Lý Minh Thắng trình bày tại phiên tòa: Chiếc xe máy Vision màu đen cũ, biển kiểm soát 12V1 – 141.** là của anh, khi bị cáo Lý Minh T mượn xe không nói cho anh biết về việc đi mua bán trái phép chất ma túy do đó anh đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho anh chiếc xe máy.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Chu Văn M trình bày tại phiên tòa: Bản thân đã được mua ma túy với bị cáo Lý Minh T 02 lần cụ thể 01 lần vào các ngày 10/6/2020 mua một gói với giá 100.000 (một trăm nghìn) đồng/gói; ngày 17/6/2020 đã đưa cho bị cáo Lý Minh T số tiền 500.000 (năm trăm nghìn) đồng tuy nhiên chưa kịp lấy ma túy thì bị phát hiện. Về số tiền 500.000 (năm trăm nghìn) đồng mua ma túy bị tạm giữ anh không có đề nghị gì; còn về 01 (một) chứng minh nhân dân bị tạm giữ anh đề nghị Hội đồng xét xử cho anh xin lại.

Tại phiên tòa đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lý Minh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Lý Minh T từ 07 (bẩy) năm 06 (sáu) tháng tù đến 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù.

Hình phạt bổ sung: Quá trình xác minh bị cáo Lý Minh T không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản giá trị để đảm bảo cho thi hành án do đó đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 46; điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, b, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì thư có chữ “QT Lý Minh T” (cũ) được dán kín, niêm phong bằng chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Đình C, trợ lý giám định và các hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới, bên trong có 01 (một) gói giấy đựng tổng cộng 0,681 gam Heroine (phần hao hụt do dùng làm mẫu giám định hết) và toàn bộ các vỏ bao gói (cũ); 01 (một) thẻ điều trị Methadone số 025.002.0803 cấp ngày 04/11/2019 mang tên Lý Minh T; 01 (một) mảnh giấy có một mặt màu trắng có diện rộng 8 cm x 8 cm;

01 (một) bật lửa ga màu vàng cam bề mặt có chữ “THỐNG NHẤT”; 03 (ba) ống hút nhựa màu vàng dài khoảng 02cm, mỗi ống nhựa đều bịt kín một đầu; 01 (một) ống hút nhựa màu trắng một đầu được vót nhọn dài khoảng 5cm.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 950.000 (chín trăm năm mươi nghìn) đồng được niêm phong trong 01 (một) phong bì thư ký hệu bằng chữ viết tay “Tiền Lý Minh T”.

- Tịch thu hóa giá nộp ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu đen đã qua sử dụng, có số Imei1: 868.784.034.876.771, Imei2: 868.784.034.876.763 bên trong lắp 01 sim Viettel và 01 sim Vinaphone.

- Trả lại cho bị cáo Lý Minh T 01 (một) chứng minh nhân dân 081001352 cấp ngày 06/8/2018 nơi cấp Công an tỉnh Lạng Sơn mang tên Lý Minh T. Trả lại cho anh Chu Văn M 01 (một) chứng minh nhân dân 082373976 cấp ngày 02/10/2018 nơi cấp Công an tỉnh Lạng Sơn mang tên Chu Văn M. Trả lại cho anh Lý Minh T2 01 (một) xe mô tô nhãn nhiệu Honda Vision màu đen cũ đã qua sử dụng biển kiểm soát 12V1 - 141.**; số máy: JF86E2155256, số khung: 5838KY090825.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận: Bị cáo Lý Minh T; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến tranh luận gì thêm.

Khi nói lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, phù hợp với quy định của pháp luật Tố tụng hình sự, các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Lý Minh T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai người làm chứng, người chứng kiến và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận bị cáo đã mua ma túy về bán cho những người nghiện, trước đó bị cáo còn được bán ma túy nhiều lần cho nhiều người nghiện khác nhưng không biết tên, tuổi địa chỉ. Chỉ biết tên một số người nghiện đã mua ma túy với bị cáo như:

Chu Văn M mua ma túy 01 lần vào khoảng 12 giờ ngày 10/06/2020 và 01 lần vào ngày 17/6/2020 đã đưa tiền cho bị cáo nhưng chưa kịp cầm ma túy thì bị bắt; Lăng Văn B mua 01 lần vào khoảng 17 giờ ngày 15/6/2020; Mông Văn H mua 01 lần vào khoảng 15 giờ ngày 15/06/2020. Tổng số tiền ma túy đã bán được 950.000 (chín trăm năm mươi nghìn) đồng; do đó Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn truy tố đối với bị cáo Lý Minh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo gây ra là rất nghiêm trọng vì đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, gây mất an ninh trật tự tại địa phương, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Bị cáo đủ tuổi trưởng thành, đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi bán ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì nghiện ma túy và cần có ma túy để sử dụng nên bị cáo đã phạm tội. Hiện nay việc đấu tranh phòng, chống ma túy là nhiệm vụ cấp bách của toàn xã hội, do đó hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo Lý Minh T cần phải được xử lý nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại Bản án số 29/2013/HS- STngày 21/5/2013 của Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xử phạt bị cáo Lý Minh T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” bị cáo đã chấp hành xong án phạt tù, đã thi hành tiền án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm; tuy nhiên chưa thi hành phần trách nhiệm dân sự với số tiền bồi thường thiệt hại là 6.919.227 (sáu triệu chín trăm mười chín nghìn hai trăm hai mươi bẩy) đồng; do đó lần phạm tội này của bị cáo là tái phạm vì vậy bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6] Về nhân thân: Bị cáo chưa được xóa tiền án, đã được xóa tiền sự do đó xác định bị cáo là người có nhân thân xấu.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, bị cáo còn có thể bị phạt bổ sung là hình phạt tiền từ 5.000.000 (năm triệu) đồng đến 500.000.000 (năm trăm triệu) đồng. Tuy nhiên bản thân bị cáo không có tài sản riêng, không có việc làm, không có thu nhập ổn định để đảm bảo cho việc thi hành án do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Đối với người đàn ông lái xe ôm khoảng 40 tuổi tại khu vực thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn đã bán ma túy cho bị cáo Lý Minh T do bị cáo không biết rõ lai lịch địa chỉ nên không đủ điều kiện xác minh làm rõ được.

[9] Đối với Chu Văn M và Lăng Văn B, ngày 17/6/2020 cả hai cùng rủ nhau ra thị trấn N, huyện V, tỉnh Lạng Sơn mua ma túy về nhằm mục đích sử dụng. Khi đến sân chùa N, Chu Văn M là người đưa tiền cho bị cáo Lý Minh T 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 (năm trăm nghìn) đồng để mua 01 gói ma túy, khi bị cáo Lý Minh T đang chuẩn bị bù tiền và lấy ma túy cho Chu Văn M thì bị lực lượng chức năng phát hiện bắt quả tang. Chu Văn M và Lăng Văn B là những người nghiện chất ma túy, mua ma túy với bị cáo Lý Minh T nhằm mục đích thỏa mãn cơn nghiện, nhưng chưa kịp nhận gói ma túy thì đã bị phát hiện nên không có căn cứ xử lý. Cơ quan điều tra đã tách và chuyển hồ sơ đến Ủy ban nhân dân xã nơi các đối tượng cư trú đề nghị xem xét đưa vào diện quản lý cai nghiện tại cấp xã theo Nghị định 111/2013/NĐ-CP ngày 30/9/2013 của Chính phủ về quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn; do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Đối với Mông Văn H là người nghiện mua ma túy với bị cáo Lý Minh T nhằm mục đích sử dụng, số ma túy mua về Mông Văn H đã sử dụng hết nên không liên quan trong vụ án này. Ngày 18/9/2020, Mông Văn H đã bị Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

[11] Đối với 01 chứng minh nhân dân mang tên Lăng Văn B bị Cơ quan điều tra Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn tạm giữ, ngày 21/6/2020 Cơ quan điều tra Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã trả cho Lăng Văn B vì không phải tang vật chứng của vụ án; do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[12] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì thư có chữ “QT Lý Minh T” (cũ) được dán kín, niêm phong bằng chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Đình C, trợ lý giám định và các hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới, bên trong có 01 (một) gói giấy đựng tổng cộng 0,681 gam Heroine (phần hao hụt do dùng làm mẫu giám định hết) và toàn bộ các vỏ bao gói (cũ); 01 (một) thẻ điều trị Methadone số 025.002.0803 cấp ngày 04/11/2019 mang tên Lý Minh T; 01 (một) mảnh giấy có một mặt màu trắng có diện rộng 8 cm x 8 cm; 01 (một) bật lửa ga màu vàng cam bề mặt có chữ “THỐNG NHẤT”; 03 (ba) ống hút nhựa màu vàng dài khoảng 02cm, mỗi ống nhựa đều bịt kín một đầu; 01 (một) ống hút nhựa màu trắng một đầu được vót nhọn dài khoảng 5cm là vật cấm tàng trữ, lưu hành, không có giá trị và không sử dụng được theo quy định tại điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[13] Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 950.000 (chín trăm năm mươi nghìn) đồng được niêm phong trong 01 (một) phong bì thư ký hiệu bằng chữ viết tay “Tiền Lý Minh T” là số tiền do phạm tội mà có theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[14] Tịch thu hóa giá nộp ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu đen đã qua sử dụng, có số Imei1: 868.784.034.876.771, Imei2: 868.784.034.876.763 bên trong lắp 01 sim Viettel và 01 sim Vinaphone là công cụ, phương tiện phạm tội theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[15] Trả lại cho bị cáo Lý Minh T 01 (một) chứng minh nhân dân số 081001352 cấp ngày 06/8/2018 nơi cấp Công an tỉnh Lạng Sơn mang tên Lý Minh T. Trả lại cho anh Chu Văn M 01 (một) chứng minh nhân dân số 082373976 cấp ngày 02/10/2018 nơi cấp Công an tỉnh Lạng Sơn mang tên Chu Văn M theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[16] Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn nhiệu Honda Vision màu đen cũ đã qua sử dụng biển kiểm soát 12V1 - 141.**; số máy: JF86E2155256, số khung: 5838KY090825, qua điều tra xác minh được chủ sở hữu là anh Lý Minh T2, khi bị cáo mượn đi mua bán trái phép chất ma túy không nói cho anh Lý Minh T2 biết; do đó trả lại cho anh Lý Minh T2 theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[17] Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[18] Ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt, về việc xử lý vật chứng là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[19] Bị cáo, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015;

Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 46; điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, b, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136; Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lý Minh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Hình phạt:

- Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Lý Minh T 07 (bẩy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 17-6-2020.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì thư có chữ “QT Lý Minh T” (cũ) được dán kín, niêm phong bằng chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Đình C, trợ lý giám định và các hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới, bên trong có 01 (một) gói giấy đựng tổng cộng 0,681 gam Heroine (phần hao hụt do dùng làm mẫu giám định hết) và toàn bộ các vỏ bao gói (cũ); 01 (một) thẻ điều trị Methadone số 025.002.0803 cấp ngày 04/11/2019 mang tên Lý Minh T; 01 (một) mảnh giấy có một mặt màu trắng có diện rộng 8 cm x 8 cm;

01 (một) bật lửa ga màu vàng cam bề mặt có chữ “THỐNG NHẤT”; 03 (ba) ống hút nhựa màu vàng dài khoảng 02cm, mỗi ống nhựa đều bịt kín một đầu; 01 (một) ống hút nhựa màu trắng một đầu được vót nhọn dài khoảng 5cm.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 950.000 (chín trăm năm mươi nghìn) đồng được niêm phong trong 01 (một) phong bì thư ký hiệu bằng chữ viết tay “Tiền Lý Minh T”.

- Tịch thu hóa giá nộp ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu đen đã qua sử dụng, có số Imei1: 868.784.034.876.771, Imei2: 868.784.034.876.763 bên trong lắp 01 sim Viettel và 01 sim Vinaphone.

- Trả lại cho bị cáo Lý Minh T 01 (một) chứng minh nhân dân số 0810013** cấp ngày 06/8/2018 nơi cấp Công an tỉnh Lạng Sơn mang tên Lý Minh T. Trả lại cho anh Chu Văn M 01 (một) chứng minh nhân dân số 0823739** cấp ngày 02/10/2018 nơi cấp Công an tỉnh Lạng Sơn mang tên Chu Văn M.

- Trả lại cho anh Lý Minh T2 01 (một) xe mô tô nhãn nhiệu Honda Vision màu đen cũ đã qua sử dụng biển kiểm soát 12V1 - 141.**; số máy: JF86E2155256, số khung: 5838KY090825.

(Các vật chứng còn lại hiện nay đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/11/2020).

4. Về án phí: Bị cáo Lý Minh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 (hai trăm nghìn) đồng sung vào ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm; bị cáo, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 79/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:79/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về