Bản án 79/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LỘC, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 79/2020/HS-ST NGÀY 12/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 11 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 81/2020/TLST-HS ngày 09 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 78/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Đức B, sinh năm 1986 tại huyện N, tỉnh Hải Dương; nơi cư trú: Thôn V, xã T, huyện N, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình P và bà Trần Thị V1; có vợ là Nguyễn Thu P1 và có 02 con; tiền sự: Không.

Tiền án: 02.

+ Tại bản án số: 58/2017/HSST ngày 03/8/2017, Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương xử phạt Nguyễn Đức B 13 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/4/2018, chưa được xóa.

+ Tại bản án số: 13/2019/HS-ST ngày 27/02/2019, Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương xử phạt Nguyễn Đức B 10 tháng tù về tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" (tình tiết tăng nặng là "tái phạm"), chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/9/2019, chưa được xóa.

Nhân thân:

+ Tại bản án số: 13/2010/HSST ngày 24/5/2010, Tòa án nhân dân huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương xử phạt Nguyễn Đức B 30 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/5/2012, đã được xóa.

+ Ngày 11/4/2013, Công an huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi "Trộm cắp tài sản", chấp hành xong ngày 15/4/2013, đã được xóa.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/8/2020 đến ngày 14/8/2020 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương đến nay, có mặt.

- Người bào chữa: Bà Nguyễn Thị S - Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thuộc Sở Tư pháp tỉnh Hải Dương (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Đức B là người nghiện ma túy, đã bị kết án, tái phạm chưa được xóa án tích. Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 11/8/2020, B điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 34D1-336.05 đi đến khu vực thị trấn Gia Lộc, huyện Gia Lộc mục đích tìm mua Heroine để sử dụng. Khi đến đường Nguyễn Chế Nghĩa, khu 8, thị trấn Gia Lộc, huyện Gia Lộc, B gặp một người phụ nữ không quen biết và hỏi người phụ nữ “Chị có hàng không bán cho em ít?”; người này hỏi lại “Có, mua bao nhiêu?”. B trả lời “Cho em 300.000 đồng trắng”. Người phụ nữ bảo B đưa tiền. B đưa cho người này 02 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng. Người phụ nữ cầm tiền rồi đưa lại cho B 04 gói giấy nhỏ màu trắng và 100.000 đồng rồi bỏ đi. B điều khiển xe quay đầu đi về hướng ngã tư chợ Cuối, thị trấn Gia Lộc thì bị lực lượng Công an huyện Gia Lộc phát hiện, bắt quả tang vào hồi 12 giờ 00 phút cùng ngày tại khu 8, thị trấn Gia Lộc, huyện Gia Lộc, thu giữ trong lòng bàn tay trái của B đang cầm 04 gói giấy nhỏ màu trắng, bên trong mỗi gói đều có chứa chất bột dạng cục màu trắng, B khai nhận đó là Heroine vừa mua được để sử dụng cho bản thân và quản lý của B 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng, 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng, 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA loại EXCITER màu đen biển kiểm soát 34D1-336.05.

Kết luận giám định số 352/KLGĐ-PC09 ngày 12/8/2020, Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất bột (dạng cục) màu trắng niêm phong trong phong bì ghi thu của Nguyễn Đức B, gửi đến giám định tổng khối lượng là: 0,235 g (không phẩy hai trăm ba mươi lăm gam) là ma túy, loại Heroine.

Cáo trạng số 79/CT-VKS ngày 07/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương truy tố Nguyễn Đức B về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự (BLHS).

Tại phiên tòa: VKSND huyện Gia Lộc giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX): Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS); Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức B phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Xử phạt bị cáo từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 11/8/2020. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu huỷ toàn bộ số ma tuý hoàn lại sau giám định. Về án phí: Bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo nên đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Người bào chữa nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát, xác định quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên đề nghị HĐXX xem xét xử phạt bị cáo ở mức hình phạt thấp nhất và miễn toàn bộ án phí cho bị cáo.

Bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, xác định quyết định truy tố, luận tội của VKSND huyện Gia Lộc đối với bị cáo là đúng và nói lời sau cùng đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện được xác định là hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 12 giờ 00 phút ngày 11/8/2020 tại khu 8, thị trấn Gia Lộc, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, Nguyễn Đức B có hành vi cất giấu trái phép trong lòng bàn tay trái 04 gói giấy nhỏ màu trắng, có chứa tổng 0,235 g (không phẩy hai trăm ba mươi lăm gam) Heroine để sử dụng cho bản thân thì bị Công an huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi cất giấu trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, khối lượng chất ma tuý bị cáo cất giấu là 0,235 gam Heroine nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; bị cáo đã tái phạm chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên thuộc trường hợp "tái phạm nguy hiểm" quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 BLHS. Như vậy, VKSND huyện Gia Lộc truy tố đối với bị cáo là có căn cứ.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Ma túy gây tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh nhiều tội phạm khác, gây ảnh hưởng xấu đến sự an toàn xã hội, an ninh trật tự tại địa phương; bị cáo nghiện ma tuý đã bị kết án nhưng bị cáo không tự tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà vẫn lệ thuộc vào chất ma túy và tiếp tục phạm tội nên cần thiết phải có mức hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian thì mới đủ tác dụng giáo dục, trừng trị, răn đe và đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bản thân bị cáo nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Số ma túy đã thu giữ gửi đến giám định, cơ quan giám định hoàn lại 0,147 gam Heroine là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ. Chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA loại EXCITER màu đen biển kiểm soát 34D1-336.05 thuộc sở hữu của Nguyễn Văn T1 sinh năm 1989, trú tại thôn L xã H, huyện G, B mượn của T1 nhưng T1 không biết B sử dụng xe mô tô để đi mua ma túy; quá trình điều tra xác định sáng ngày 11/8/2020 tại thôn 4, xã Vạn Phúc, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, B đã cùng Nguyễn Văn T1 thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là chiếc xe máy điện và số tiền 600.000 đồng trong cốp xe máy điện của bà Phạm Thị T2 sinh năm 1967, trú tại xã Vạn Phúc, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương; Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Gia Lộc đã có công văn trao đổi thông tin tội phạm với Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Ninh Giang; ngày 13/8/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Ninh Giang đã ra Quyết định khởi tố vụ án, Quyết định khởi tố bị can đối với Nguyễn Đức B về tội trộm cắp tài sản; xác định chiếc xe mô tô nói trên và các vật chứng gồm 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng, 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng là những vật chứng liên quan đến vụ trộm cắp tài sản này, ngày 14/8/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Gia Lộc đã chuyển những vật chứng này đến Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Ninh Giang để giải quyết theo thẩm quyền là phù hợp.

[7] Nguyễn Văn T1 là người cho Nguyễn Đức B mượn xe mô tô biển kiểm soát 34D1-336.05 nhưng T1 không biết B sử dụng xe mô tô để đi mua ma túy nên không đặt ra xử lý đối với T1 trong vụ án này là phù hợp.

[8] Về nguồn gốc số ma tuý: Bị cáo khai đã mua ma tuý của một người phụ nữ ở đường Nguyễn Chế Nghĩa, khu 8, thị trấn Gia Lộc, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, quá trình điều tra không xác định được là ai nên không có căn cứ xử lý.

[9] Về án phí: Bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo nên được miễn án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106, các điều 135, 136, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức B phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

 Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức B 05 (năm) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 11/8/2020.

2. Về vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 0,147 gam Heroine được hoàn lại sau giám định trong phong bì thư dán kín niêm phong số 352/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương gửi Cơ quan CSĐT Công an huyện Gia Lộc (đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Gia Lộc và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lộc ngày 16 tháng 10 năm 2020).

3. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nguyễn Đức B.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 79/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:79/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lộc - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về