Bản án 79/2020/HSPT ngày 21/09/2020 về tội tàng trữ và mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 79/2020/HSPT NGÀY 21/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ VÀ MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 84/2020/TLPT-HS ngày 18 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Anh và Trần Minh Th, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 207/2020/HS-ST ngày 17/07/2020, của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh;

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Anh Đ; sinh ngày 17/5/1971, tại tỉnh Quảng Ninh. Nơi cư trú: Tổ 63 khu 6 phường Hà Khẩu, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Anh T; con bà: Phạm Thị Ng; có vợ và 02 con; tiền án, tiền sự: chưa; Nhân thân: năm 2008 bị Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long xử phạt 24 tháng tù về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy", đã chấp hành xong bản án. Bị bắt ngày 29/11/2019, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh, có mặt.

2. Họ và tên: Trần Minh Th, sinh ngày 28/02/1982, tại tỉnh Quảng Ninh. Nơi cư trú: Thôn Thành Giền, xã Tiền An, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn Ch; con bà: Bùi Thị R; có vợ, chưa có con; tiền án, tiền sự: chưa; Bị bắt ngày 29/11/2019, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh, có mặt.

Ngoài ra trong vụ án này còn có 4 bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 16 giờ 30 phút ngày 28/11/2019, tại khu vực cổng chợ Giếng Đáy thuộc tổ 8, khu 4, phường Giếng Đáy, thành phố Hạ Long tỉnh Quảng Ninh, Công an tỉnh Quảng Ninh phát hiện bắt quả tang Trương Thị M có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ trong túi quần bên phải của M đang mặc 02 túi ni lon, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Sirius, biển kiểm soát (BKS) 98M9-9197 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh.

Trương Thị Mai kh: Mai và Đỗ Văn T quan hệ với nhau như vợ chồng. Chiều ngày 28/11/2019, T đưa cho M 1.400.000 đồng và bảo M đến nhà đối tượng tên Đ mua ma túy “Đá” về cho T. Sau đó, M gọi điện cho Đ hỏi mua ma túy. Đ đồng ý và hẹn đến nhà Đ để giao dịch. T đã nhờ đối tượng tên Thắng “Gà” (không rõ lai lịch, địa chỉ) là bạn của T, dùng xe mô tô nhãn hiệu Sirius, BKS 98M9- 9197 của T để chở M đi. Khi đến cửa nhà Đ, Thắng “Gà” đứng ngoài, M vào trong nhà, gặp và mua của Đ 02 túi ma túy với giá 1.400.000 đồng. Trên đường đi về đến khu vực cổng chợ Giếng Đáy, Th đã dừng xe đi vào trong chợ, M đứng ngoài trông xe thì bị Công an kiểm tra bắt quả tang, thu giữ 02 túi ma túy vừa mua của Đ. Ngoài ra, M còn khai trước đó vào khoảng đầu tháng 11; giữa tháng 11 và các ngày 18, 25/11/2019, M đã 04 lần đến nhà Đ mua ma túy về cho T, mục đích để sử dụng. Mỗi lần mua từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng, lần thì T đưa tiền cho M tự đi mua, có lần M và T cùng đi mua về sử dụng. Tại phiên tòa bị cáo M khai phù hợp với lời khai trên và khẳng định tất cả những lần M đi mua ma túy của Đ đều nhằm mục đich để sử dụng và chỉ mua loại ma túy như đã bị công an thu giữ ngày 28/11/2019.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh, ra Lệnh bắt, khám xét khẩn cấp tại phòng trọ của Đỗ Văn T, Trương Thị M thuộc tổ 1, khu 10, phường Bãi Cháy, thành phố Hạ Long, thu giữ 01 bộ đồ sử dụng ma túy đá gồm 01chai nhựa màu trắng, có lắp màu xanh, trên lắp đục 02 lỗ nhỏ, trong đó: 01 lỗ cắm ống h út nhựa màu trắng dài 40cm và 01 lỗ cắm ống thủy tinh có 01 bầu tròn cùng 01 bật lửa ga màu trắng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung màu vàng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu xanh.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa Đỗ Văn T khai cơ bản phù hợp với lời khai của Trương Thị M và khai cụ thể: chiều ngày 28/11/2019, tại phòng trọ của T, đối tượng tên Tứ (tức Tùng) đến chơi và góp tiền gửi T mua giúp 300.000 đồng ma túy; tiếp đó, những người khác cũng góp tiền gửi T mua hộ ma túy gồm: Đặng Quang T1 gửi 200.000 đồng, Trần Minh Th gửi 150.000 đồng và Hoàng Kim Ch gửi 300.000 đồng, với mục đích để sử dụng. T cũng tự bỏ thêm tiền vào được 1.400.000 đồng. T đưa cho M và bảo Thắng “Gà” (là bạn quen biết ngoài xã hội không rõ lai lịch cụ thể), chở đi đến nhà Đ mua ma túy đá về chia nhau sử dụng.

Ngoài ra, T còn khai vào khoảng đầu tháng 11/2019, thông qua Thắng “Gà" nên T và M còn nhiều lần đến nhà Đ mua ma túy đá về để cùng nhau sử dụng. T không nhớ hết từng lần. T chỉ nhớ cách ngày bị bắt khoảng 02 tuần. T đã 02 lần mua ma túy đá của Đ về sử dụng một phần, số còn lại T cất giấu, sau đó đã bán cho T2, cụ thể như sau:

Lần 1: Vào khoảng giữa tháng 11/2019, T bảo M sang nhà Đ mua 01 túi ma túy đá giá 200.000 đồng. T và M đã sử dụng 01 nửa, số còn lại T cất giấu ở phòng trọ, mục đích để bán. Cách ngày bị bắt khoảng 01 tuần, T đã bán 01 túi ma túy trên cho Tứ với giá 200.000 đồng.

Lần 2: Cách ngày bị bắt khoảng 04 ngày Tứ gọi điện hỏi mua 300.000 đồng ma túy, T đồng ý, sau đó Tứ đến phòng trọ gặp và mua của T 01 túi ma túy, với giá 300.000 đồng. Về nguồn gốc ma túy T bán cho Tứ là do T mua của Đ, với giá 300.000 đồng.

Ngoài bán ma túy cho Tứ, bị cáo T còn 03 lần bán ma túy cho bị cáo T1 vào các ngày 15, 25/10/2019 và 02/11/2019, mỗi lần bán 01 túi với giá từ 200.000 đồng đến 700.000 đồng tại cửa phòng trọ của T. Nguồn gốc ma túy T bán cho T1, do T mua của những người không quen biết ở các khu vực như cổng chợ Ba Lan, bến xe Bãi Cháy và ngã ba Hà Khẩu, thành phố Hạ Long, vào các ngày 14,24/10/2019 và 02/11/2019, mỗi lần mua từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng. Việc T bán ma túy cho những người khác thì M không tham gia.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh, ra Lệnh bắt khẩn cấp đối với Đặng Quang T1, Trần Minh Th và Hoàng Kim Ch, thu giữ của Th 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đỏ đen và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen trắng và 01 căn cước công dân mang tên Trần Minh Th; thu giữ của Chiến 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen trắng; thu giữ của T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung màu đỏ đen và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Huawei màu xanh đen.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa Đặng Quang T1, Trần Minh Th và Hoàng Kim Ch đều khai nhận phù hợp với lời khai của T về việc, chiều ngày 28/11/2019, do có nhu cầu sử dụng ma túy, nhưng không biết chỗ để mua, nên đã đến phòng trọ đưa cho T, cụ thể: T1 gửi 200.000 đồng; Th gửi 150.000 đồng; Ch gửi 300.000 đồng, để nhờ T mua ma túy giúp về sử dụng. Ngoài ra, T1 còn khai: Trước đó vào các buổi sáng và buổi trưa các ngày 15, 25/10/2019 và 02/11/2019, tại trước cửa phòng trọ của T, T1 đã 03 lần mua ma túy của T, mỗi lần mua 01 túi với giá từ 200.000 đồng đến 700.000 đồng.

Riêng đối với Đàm Quang T2 không thừa nhận việc gửi T 300.000 đồng mua hộ ma túy vào chiều ngày 28/11/2019, như T khai.

Căn cứ vào tài liệu điều tra, vào hồi 6 giờ 40 phút ngày 29/11/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh ra Lệnh giữ người, khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Anh Đ thu giữ: Tại nóc tủ trong phòng ngủ của Đ 01 túi ni lon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; thu trong ngăn kéo đầu giường phòng ngủ 01 gói giấy bên trong chứa chất bột màu trắng; 01 túi ni lon bên trong chứa 01 viên nén màu xanh, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen; 02 vỏ túi nilon màu trắng kích thước 3x3 cm và 01 vỏ ống nhựa màu trắng sọc đỏ dài 14 cm, đường kính 01cm, một đầu cắt vát và 4.000.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, Nguyễn Anh Đ khai nhận phù hợp như Tuy và M khai, về việc Đ đã 04 lần bán ma túy cho M và T vào đầu tháng 11; và vào các ngày 18 và ngày 25/11/2019, tại nơi ở của Đ, mỗi lần bán từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng. Tiếp đến chiều ngày 28/11/2019, Đ bán cho M 1.400.000 đồng ma túy. Ngoài ra, trước đó vào buổi sáng ngày 28/11/2019, T và 01 nam thanh niên (Sau này biết tên là Đặng Quang T1) đến mua 200.000 đồng ma túy đá và sử dụng luôn tại nhà Đ. Về nguồn gốc số ma túy Đ bán cho T, M và số ma túy Công an thu giữ khi bắt giữ là do Đ mua của những người thanh niên không quen biết ở khu vực cầu Nghìn, thành phố Thái Bình.

Tại phiên tòa sơ thẩm, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng VKSND thành phố Hạ Long đã truy tố.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 207/2020/HS-ST ngày 17/7/2020, của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh đã quyết định: Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T 07 (bẩy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 02 (Hai) năm về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 09 (chín) năm tù, bị cáo Nguyễn Anh Đ 08 (tám) năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Bị cáo Đặng Quang T1 09 (chín) tháng tù, bị cáo Trương Thị M 18 (mười tám) tháng tù, bị cáo Hoàng Kim Ch 15 (mười lăm) tháng tù, bị cáo Trần Minh Th 15 (mười lăm) tháng tù, cùng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định buộc các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm; xử lý vật chứng và thông báo quyền kháng cáo cho các bị cáo theo quy định của pháp luật;

Ngày 21/7/2020, bị cáo Nguyễn Anh Đ có đơn kháng cáo với nội dung: xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 21/7/2020, bị cáo Trần Minh Th có đơn kháng cáo với nội dung: xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Anh Đ vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo, xin giảm nhẹ hình phạt. Lý do: Bố đẻ là người có công với cách mạng, được tặng thưởng Huân chương kháng chiến. Hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ già yếu, bản thân là lao động chính, vợ không có việc làm, con nhỏ, bị cáo đã nhận thức được lỗi lầm, ăn năn hối hận, thành khẩn khai báo; Bản án sơ thẩm xử nặng, nên xin được giảm hình phạt để sớm được trở về với gia đình ổn định cuộc sống.

Tại phiên tòa bị cáo Trần Minh Th vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo, xin giảm nhẹ hình phạt. Lý do: Hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính, vợ mới sịnh con nhỏ 02 tháng tuổi. Bị cáo có nhận thức pháp luật kém, rất ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình, đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh:

- Đối với bị cáo Nguyễn Anh Đ, tuy có tình tiết bố được tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng 3 chưa được áp dụng, nhưng mức án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là đã xem xét giảm nhẹ, phù hợp với mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo.

- Đối với bị cáo Trần Minh Th, những tình tiết giảm nhẹ đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét và đánh giá; Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới.

Nên không có căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo; Do đó, đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Anh Đ và bị cáo Trần Minh Th, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của các bị cáo làm trong hạn luật định nên chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm;

[2] Xét hành vi phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, cũng như tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Nguyễn Anh Đ và bị cáo Trần Minh Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung vụ án đã nêu; Các bị cáo đều thừa nhận Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đúng người đúng tội, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

[3] Xét kháng cáo của các bị cáo Hội đồng xét xử nhận thấy:

- Đối với bị cáo Nguyễn Anh Đ: sau khi xét xử sơ thẩm, gia đình bị cáo cung cấp tài liệu mới xác định ông Nguyễn Anh T - là bố đẻ bị cáo Đ được tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng 3, là tình tiết giảm nhẹ qui định tại khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự, mà bản án sơ thẩm chưa được áp dụng; Nên có thể xem xét áp dụng tình tiết này, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

- Đối với bị cáo Trần Minh Th, những tình tiết giảm nhẹ đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét và đánh giá; Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới, nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[4] Về án phí:

Do kháng cáo bị cáo Nguyễn Anh Đ được chấp nhận, nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm; Còn kháng cáo của bị cáo Trần Minh Th không được chấp nhận, nên bị cáo Th phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Anh Đ, sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ hình phạt.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Minh Th và giữ nguyên bản án sơ thẩm;

Áp dụng: điểm b khoản 2 điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Anh Đ 07 (bẩy) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 29/11/2019.

Áp dụng: điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Minh Th 15 (mười lăm) tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 29/11/2019.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBNTQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; Bị cáo Nguyễn Anh Đức không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm;

Bị cáo Trần Minh Th phải nộp 200.000đ đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm, không có kháng cáo kháng nghị, đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị;

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 79/2020/HSPT ngày 21/09/2020 về tội tàng trữ và mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:79/2020/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:21/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về