TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 79/2018/HS-PT NGÀY 16/10/2018 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 16 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông mở phiên toà xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 79/2018/TLPT- HS ngày 17 tháng 8 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2018/QĐXXPT-HS ngày 02 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo: Y G do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 28/2018/HS-ST ngày 10/07/2018 của Toà án nhân dân thị xã Gia Nghĩa.
Bị cáo có kháng cáo: Y G (tên gọi khác: Y T), sinh năm 1998 tại tỉnh Đắk Nông; nơi cư trú: Tổ A, phường N, thị xã G, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 6/12; giới tính: nam; dân tộc: M’Nông; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Y G1 và bà H’L; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17-4-2018 - Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo:
- Ông Huỳnh Đạt, Luật sư Văn phòng luật sư Hoài An thuộc Đoàn luật sư tỉnh Đắk Nông; địa chỉ: Số 21, Đường 3/2, phường Nghĩa Tân, thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông - Có mặt.
- Ông Y’ Lam và ông Hoàng Ngọc Tuấn, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đắk Nông; địa chỉ: Đường Lê Duẩn, phường Nghĩa Tân, thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông - Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ ngày 17-4-2018, Y G và Mai Thu H sau khi nhậu cùng với những người bạn khác xong thì Y G rủ Mai Thu H đi ra trung tâm thị xã G tìm người đi đường để giật tài sản. Y G điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 19P1 - 09882 chở Mai Thu H đi đến một phòng khám ở khu vực chợ thị xã G để khám tay. Sau đó, Y G điều khiển xe mô tô đi một vòng chợ thị xã G để tìm người giật tài sản, do tại khu vực chợ đông người dễ bị phát hiện nên Y G tiếp tục điều khiển xe theo đường B đi về hướng Ủy ban nhân dân tỉnh Đ.
Khi qua cầu Đ thì Y G quay xe lại, nhìn thấy phía trước có anh Nguyễn Duy T điều khiển xe mô tô theo hướng về hồ D, phía sau chở vợ là chị Nguyễn Thị H, trên vai phải của chị Nguyễn Thị H có đeo 01 túi xách (bên trong có 610.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Oppo và 01 tờ tiền nước ngoài ghi Two Dollars để sau ốp điện thoại). Thấy vậy, Y G điều khiển xe bám sát theo phía sau, khi anh T điều khiển xe đến đoạn đường B đối diện Siêu thị C thuộc tổ E, phường N, thị xã G; lúc này Y G điều khiển xe vượt lên song song với xe anh T rồi nói với Mai Thu H: “Giật đi, giật đi”, Mai Thu H dùng tay trái giật túi xách của chị Nguyễn Thị H. Khi Mai Thu H giật được túi xách, Y G điều khiển xe tăng tốc đến đoạn đường bê tông thuộc tổ F, phường N, thị xã G dừng xe lại; Y G mở túi xách lấy toàn bộ số tiền bỏ vào túi quần phía trước của mình và lấy 01 tờ 02 Dollars để ở ốp sau của điện thoại bỏ vào túi quần phía sau, trong lúc đang chia tài sản thì bị anh Bùi Văn Đ nhà ở gần đấy đến bắt giữ được Y G cùng toàn bộ vật chứng. Còn Mai Thu H bỏ chạy, đến ngày 19-4-2018 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Gia Nghĩa bắt giữ.
Bản kết luận giám định số: 34-GĐTL/PC54 ngày 28-4-2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ kết luận: Tờ tiền nước ngoài có mệnh giá 2 Dollars số sê ri B29576126A là tiền thật.
Bản kết luận định giá tài sản ngày 20-4-2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã G kết luận: 01 tờ tiền Dollars, 01 chiếc điện thoại di động và 01 túi xách nữ nêu trên, trị giá 2.434.710 đồng.
Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 3.044.710 đồng.
Bản án hình sự sơ thẩm số: 28/2018/HS-ST ngày 10-7-2018 của Toà án nhân dân thị xã Gia Nghĩa đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Y G phạm tội “Cướp giật tài sản”. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; khoản 2 Điêu 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt Y G 03 năm 06 tháng tù. Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định hình phạt đối với bị cáo khác, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo.
Ngày 20-7-2018, bị cáo Y G kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Y G thừa nhận Tòa án nhân thị xã Gia Nghĩa xử phạt bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng, không oan.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần hình phạt và điều luật áp dụng.
Những người bào chữa cho bị cáo đều trình bày: Bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; quá trình điều tra bị cáo đã khai ra bị cáo Mai Thu H giúp Cơ quan điều tra sớm làm sáng tỏ vụ án; bị cáo thực hiện hành vi phạm tội gây thiệt hại không lớn đối với bị hại, những tình tiết này được quy định tại các điểm b, h, r khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 mà Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng đối với bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt và điều luật áp dụng đối với bị cáo.
Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Bản án hình sự sơ thẩm số: 28/2018/HS-ST ngày 10-7-2018 của Toà án nhân dân thị xã Gia Nghĩa đã kết án bị cáo Y G và đồng phạm về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ và đúng pháp luật.
[2]. Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Trong quá trình khởi tố và truy tố bị cáo Y G thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình trong việc cùng bị cáo Mai Thu H thực hiện hành vi “Cướp giật tài sản” của bị hại nhưng không thừa nhận việc bị cáo là người khởi xướng và rủ rê bị cáo Mai Thu H thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đánh giá và không áp dụng tình tiết “Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là thiếu sót, gây bất lợi cho bị cáo, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình và ăn năn hối cải, do vậy cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 cho bị cáo. Mức hình phạt 03 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là có phần nghiêm khắc so với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
[3]. Do kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4]. Đối với các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự,
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Y G, sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt và điều luật áp dụng.
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 khoản 2 Điêu 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt Y G 03 (Ba) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 17-4-2018.
2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 79/2018/HS-PT ngày 16/10/2018 về tội cướp giật tài sản
Số hiệu: | 79/2018/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về