TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, TP. ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 79/2018/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2018 VỀ LY HÔN
Ngày 29 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 430/2018/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 8 năm 2018 về việc "Ly hôn", theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 4302018/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 10 năm 2018, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim O, sinh năm: 1988; Địa chỉ: 48 đường D, phường H, quận L, TP Đà Nẵng. Có mặt.
2. Bị đơn: Ông Đặng Thái B, sinh năm 1986; Địa chỉ: 341 đường T, tổ 19 phườngA, quận T, TP Đà Nẵng. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 19 tháng 8 năm 2018, lời trình bày tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim O trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kim O và ông Đặng Thái B kết hôn năm2015, đăng ký kết hôn tại UBND phường A, quận Tthành phố Đà Nẵng, hôn nhân trên sự tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do không có tiếng nói chung trong cuộc sống, ông B luôn mặc cảm không thể có con, áp lực về tiền bạc và công việc rồi chán nản ông B tụ tập với bạn xấu và thường xuyên bỏ nhà đi không về, mặc dù bà đã cố gắng chịu đựng nhưng ông B không thay đổi, vợ chồng không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay bà O xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được và đời sống chung không thể kéo dài nên đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông B.
Về quan hệ con chung: Bà O xác định, bà và ông B không có con chung.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng phát biểu quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án:
- Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình tranh tụng và tại phiên tòa, Thẩm phán vàHĐXX thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án: Qua nghiên cứu hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, xét thấy yêu cầu xin được ly hôn của bà Nguyễn Thị Kim O đối với ông Đặng Thái B là có căn cứ, phù hợp với Điều 51 và Điều 56 luật Hôn nhân và gia đình. Đề nghị HĐXX xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị Kim O.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Xét về thủ tục tố tụng: Ngày 14 tháng 8năm 2018, bà Nguyễn Thị Kim O khởi kiện vụ án Hôn nhân và Gia đình về việc "Ly hôn" đối với ông Đặng Thái B, sinh năm 1986; Địa chỉ: 341 đường T, tổ 19 phường A, quận T, TP Đà Nẵng. Ngày 22.8.2018 Tòa án nhân dân quận Thanh Khê thụ lý giải quyết vụ án là đúng theotrình tự tố tụng và thẩm quyền giải quyết vụ án được quy định tại Điều 191, Điều 195 và khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn ông Đặng Thái B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, HĐXX căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và 238 của Bộ luật tố tụng dân sự để tiến hành xét xử vụ án.
[2] Xét về nội dung: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim O cho rằng trong quá trình chung sống bà và ông Đặng Thái B xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do do không có tiếng nói chung trong cuộc sống, ông B luôn mặc cảm không thể có con, áp lực về tiền bạc và công việc rồi chán nản ông B tụ tập với bạn xấu và thường xuyên bỏ nhà đi không về, mặt dù tôi đã cố gắng chịu đựng nhưng ông B không thay đổi, vợ chồng không còn quan tâm đến nhau nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Đặng Thái B. Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê tại phiên tòa thể hiện: Hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Kim O và ông Đặng Thái B là hợp pháp, quá trình chung sống vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn như bà O trình bày là có căn cứ và thực tế vợ chồng đã sống ly thân rất nhiều năm nay, phần ai đấy sống không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Trong quá trình tranh tụng và tại phiên tòa hôm nay, ông B biết bà O ly hôn ông và được Tòa án giải thụ lý giải quyết nhưng ông cũng không có ý kiến gì đối với yêu cầu trên của bà O, điều đó thể hiện ông B cũng không tha thiết hàn gắn mối quan hệ hôn nhân với bà O. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng của bà O và ông B đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và đời sống chung không thể kéo dài, xét yêu cầu ly hôn của bà O đối với ông B là phù hợp với Điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên chấp nhận.
[3] Về quan hệ con chung: Bà O xác định, bà và ông B không có con chung nên HĐXX không đề cập đến
[4] Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, bà Nguyễn Thị Kim O phải chịu 300.000đ theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về việc "Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, sử dụng án phí lệ phí Tòa án" của Uỷ ban thường vụ quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Điều 51 và 56 của Luật hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về việc "Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, sử dụng án phí lệ phí Tòa án" của Uỷ ban thường vụ quốc hội.
Tuyên xử:
1.Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kim O được ly hôn với ông Đặng Thái B.
2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Kim O phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu số 004107 ngày 21.8.2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
3. Án xử sơ thẩm công khai, báo cho nguyên đơn biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay. Riêng bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc niêm yết kết quả xét xử tại nơi cư trú./.
Bản án 79/2018/HNGĐ-ST ngày 29/11/2018 về ly hôn
Số hiệu: | 79/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về