Bản án 79/2018/HNGĐ-ST ngày 02/11/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG – TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 79/2018/HNGĐ-ST NGÀY 02/11/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 02 tháng 11 năm 2018, Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 299/2018/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 8 năm 2018 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 157/2018/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:

1- Nguyên đơn: chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1986 (có đơn xin vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn PhM, xã XH, huyện LG, tỉnh BG

2- Bị đơn: anh Phạm Văn D, sinh năm 1977; (vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn A, xã XH, huyện LG, tỉnh BG

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày: Chị và anh Phạm Văn D đã kết hôn trên cơ sở tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn. Vợ chồng đăng ký kết hôn tại UBND xã XH, huyện LG ngày 26/12/2008 và tổ chức lễ cưới tại gia đình ngày 02/12/2008. Sau khi kết hôn, vợ chồng về chung sống hòa thuận, khi chị có thai con gái đầu thì nảy sinh mâu thuẫn do anh D hay uống rượu say, không chịu làm ăn, chị có khuyên bảo thì anh D lại đánh, chửi. Từ năm 2009 đến đầu năm 2017 tình trạng vợ chồng mâu thuẫn cãi vã, đánh nhau liên tiếp xảy ra gay gắt, chị thường xuyên phải bỏ về nhà bố, mẹ đẻ ở sau đó vợ chồng lại quay lại, đến đầu năm 2017 do mâu thuẫn không hòa giải được, chị đã về nhà bố mẹ đẻ và từ đó đến nay vợ chồng sống ly thân, thỉnh thoảng vợ chồng gặp nhau, anh D vẫn nói mong muốn vợ chồng về chung sống, nhưng chị thấy anh D vẫn thường xuyên uống rượu say xỉn, không tu chí làm ăn nên không nhất trí quay lại. Nay xác định không còn tình cảm, vợ chồng không chung mục đích sống, chị không muốn duy trì hôn nhân nên đề nghị Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn.

Vợ chồng chị có hai con chung là Phạm Thị Huyền Tr, sinh ngày 20/10/2009 và Phạm Linh Nh, sinh ngày 26/3/2015, hiện nay các con đều khỏe mạnh. Từ khi vợ chồng ly thân đến nay thì cháu Tr ở cùng bố, cháu Nh ở cùng chị. Nay ly hôn, chị xin được nuôi cả hai con vì cháu Nh còn nhỏ và cháu Tr thì có mong muốn được ở cùng mẹ. Trong trường hợp được nuôi cả hai con chị không yêu cầu anh D đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con. Nếu anh D muốn nuôi cháu Tr thì chị nhất trí.

Về tài sản chung, công nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Phạm Văn D trình bày tại bản tự khai, biên bản ghi lời khai ngày 01/10/2018 xác nhận về thời gian, điều kiện kết hôn như chị H trình bày là đúng. Về mâu thuẫn vợ chồng trên thực tế là có xảy ra do những bất đồng trong tính cách, lối sống, do tính tình anh nóng nảy nên đôi khi không kiềm chế được. Vợ chồng đã ly thân hơn một năm nay. Quan điểm của anh mong muốn vợ chồng đoàn tụ, nếu chị H kiên quyết ly hôn, anh nhất trí ly hôn.

Về con chung, vợ chồng anh có hai con như chị H khai. Trường hợp vợ chồng ly hôn, anh yêu cầu Tòa án giao cho anh nuôi cháu Tr, còn chị H nuôi cháu Nh và không ai phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho ai.

Về tài sản chung, công nợ chung: anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, chị H có đơn xin xét xử vắng mặt và vẫn yêu cầu Tòa án xử cho vợ chồng ly hôn, chị nhất trí để anh D nuôi con và yêu cầu được quyền thăm nom con sau khi ly hôn, anh D đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử công bố lời khai của nguyên đơn, bị đơn và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang tại phiên toà đã phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử, của thư ký là đúng quy định của pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án đều đảm bảo thực hiện nghiêm túc, đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Đối với bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, nên HĐXX xét xử vắng mặt là đúng quy định. Về nội dung vụ án, kiểm sát viên đã phân tích đánh giá tài liệu, chứng cứ, thực trạng mâu thuẫn của anh D, chị H đề nghị áp dụng điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị H, anh D ly hôn. Về con chung giao cho chị H nuôi cháu Phạm Linh Nh, sinh ngày 26/3/2015, giao anh Phạm Văn D nuôi Phạm Thị Huyền Tr, sinh ngày 20/10/2009. Về cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra xem xét. Về án phí, chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, sau khi thẩm tra các chứng cứ tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị H cùng các tài liệu nộp theo đơn là hợp lệ, đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về hình thức, nội dung đơn khởi kiện. Đây là tranh chấp hôn nhân gia đình cụ thể là ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo khoản 1điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang.

[2].Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang đã thụ lý, giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục tố tụng dân sự pháp luật đã quy định. Đối với nguyên đơn đã chấp hành nghiêm túc, thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Đối với bị đơn đã có lời khai tại Tòa án, song không đến tham gia phiên tòa mặc dù đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai, do nguyên đơn có đơn xin vắng mặt, bị đơn vắng mặt nên HĐXX căn cứ điều 227, 228, 238 của Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Văn D đã kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Xuân Hương, huyện Lạng Giang ngày 26/12/2008 nên quan hệ hôn nhân của anh, chị là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

Về mâu thuẫn vợ chồng: Chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Văn D đều xác nhận trong quá trình chung sống, vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn bất đồng, do tính cách, lối sống và vợ chồng đã ly thân hơn một năm nay, xác minh tại chính quyền địa phương cũng cho thấy chị H và anh D có mâu thuẫn, bất đồng trong cuộc sống dẫn đến không chung sống cùng nhau, khi giải quyết vụ án anh D có mong muốn đoàn tụ, song chị H không nhất trí, xét thấy việc mâu thuẫn đã kéo dài, các bên không hòa giải được do đó Tòa án căn cứ điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Văn D ly hôn.

[4].Về con chung: Chị H và anh D có hai con chung là Phạm Thị Huyền Tr, sinh ngày 20/10/2009 và Phạm Linh Nh, sinh ngày 26/3/2015. Chị H có nguyện vọng được nuôi hai con, còn anh D có nguyện vọng nuôi cháu Tr để chị H nuôi cháu Nh. Xét thấy, thực tế điều kiện, hoàn cảnh chị H, anh D đều có công việc, thu nhập, bản thân chị H hiện đang sống nhờ ở gia đình ngoại, nếu giao cả hai con nhỏ cho chị H nuôi thì sẽ khó khăn, không đảm bảo, do đó HĐXX quyết định giao cho chị H nuôi cháu Nh, anh D nuôi cháu Tr là phù hợp. Về cấp dưỡng nuôi con chung không ai phải đóng góp nuôi con cho ai.

Sau khi ly hôn, anh D, chị H đều có quyền thăm nom con chung và không ai được cản trở anh, chị thực hiện quyền này.

[5] Về tài sản chung, công nợ chung: anh D, chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[6] Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điều 56, 57, điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 28, điều 35; điều 39; điều 70; điều 71; điều 72; điều 147; điều 227, 228, điều 235; 238, điều 271; điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; điều 26; khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí.

Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Văn D ly hôn.

Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung Phạm Linh Nh, sinh ngày 26/3/2015. Giao cho anh Phạm Văn D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung Phạm Thị Huyền Tr, sinh ngày 20/10/2009.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: không đặt ra xem xét, giải quyết.

Sau khi ly hôn, anh Di và chị H đều có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh, chị thực hiện quyền này.

Án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự ly hôn sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số AA/2018/0006653 ngày 01/8/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án xét xử vắng mặt.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 79/2018/HNGĐ-ST ngày 02/11/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:79/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về