TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 79/2017/HSST NGÀY 01/08/2017 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 01 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 85/2017/HSST ngày 14 tháng 6 năm 2017 đối với bị cáo:
Nguyễn Thị L, sinh năm 1968 tại Hải Phòng; trú tại: Số 42/282 đường A, phường B, quận C, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Thợ may; trình độ văn hóa: Lớp 7/12; con ông Nguyễn Văn G (đã chết) và bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1931; có chồng là Vũ Mạnh T, sinh năm 1967 (đã chết); có 02 con, lớn sinh năm 1993, nhỏ sinh năm 1997; tiền án, tiền sự: Không; áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
Người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Đặng Thị T, sinh năm 1979; trú tại: Số 16/180 đường A, phường B, quận C, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.
NHẬN THẤY
Bị cáo Nguyễn Thị L bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Hồi 18h10’ ngày 16/01/2017, tổ công tác Phòng Cảnh sát hình sự, Công an thành phố Hải Phòng phối hợp với Công an phường B, quận C, thành phố Hải Phòng kiểm tra nhà số 42 đường A, phường B, quận C, thành phố Hải Phòng đã phát hiện Nguyễn Thị L đang nhận các bảng đề của nhiều người khác trực tiếp chuyển đến và chuyển qua tài khoản Zalo cài đặt trên máy điện thoại của L. Tổ công tác tiến hành thu giữ 04 bảng đề tương ứng với số tiền 2.923.000 đồng và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu vàng, bên trong lắp sim điện thoại số: 01213023881; 01287212067 của L.
Quá trình điều tra đã xác định được, những người chuyển bảng đề trực tiếp cho L vào ngày 16/01/2017, gồm: Đặng Thị Kim C, sinh năm 1967; trú tại: 143/161 đường A, phường B, quận C, thành phố Hải Phòng 01 bảng đề, với số tiền tương ứng là: 68.000 đồng. Lê Thị Thanh T, sinh năm 1964; trú tại: Số 52 đường A, phường B, quận C, thành phố Hải Phòng 01 bảng đề, tương ứng số tiền 1.160.000 đồng. Nguyễn Thị Thu H, sinh năm: 1985; trú tại: 5A/29/56 đường A, phường B, quận C, thành phố Hải Phòng 01 bảng đề, tương ứng số tiền 645.000 đồng và Vũ Thị S, sinh năm: 1947; trú tại: Số 01/91 đường A, phường B, quận C, thành phố Hải Phòng 01 bảng đề tương ứng với số tiền 1.050.000 đồng. Những người chuyển bảng đề qua mạng Zalo cho Liên, gồm: Đặng Thị T, sinh năm 1979; trú tại: số 16/180 đường A, phường B, quận C, thành phố Hải Phòng chuyển 01 hình ảnh bảng đề và phần tin nhắn số bao, đề có tổng số tiền là 6.950.000 đồng; đối tượng tên N 01 bảng đề, có tổng số tiền là 133.000 đồng; đối tượng tên H 01 bảng đề, có tổng số tiền là 1.060.000 đồng; đối tượng tên K 01 bảng đề có tổng số tiền là 1.540.000 đồng; trong đó, tin nhắn của H và K gửi đến chưa được L xác nhận (hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch của N, H, K).
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị L khai nhận: Bắt đầu từ khoảng cuối năm 2016, L thuê nhiều người bán đề cho mình, trong đó có Đặng Thị T, Nguyễn Thị Thu H, Vũ Thị S, Lê Thị Thanh T, Đặng Thị Kim C và các đối tượng có tên N, H, T. L trả công cho những người bán số đề thuê cho mình theo tỉ lệ phần trăm hoa hồng, cụ thể: Số đề và ba càng 15%; bao thường 06%; bao xiên 20% trên tổng số tiền họ bán được của từng loại. Khoảng 18 giờ hàng ngày, những người bán thuê cho L tổng hợp thành các bảng đề chuyển trực tiếp cho L hoặc chụp ảnh gửi tin nhắn qua mạng xã hội Zalo theo tài khoản của L có tên “Vũ Thị Thanh T”. Căn cứ vào kết quả xổ số Miền Bắc mở thưởng hàng ngày, khi khách mua số đề, số bao trúng thưởng, L trả cho khách tiền mặt gấp nhiều lần số tiền khách mua, tùy từng loại, cụ thể: Đề gấp 80 lần; bao gấp 3,4 lần; ba càng gấp 400 lần; xiên 2, xiên 3, xiên 4 lần lượt gấp 11 lần, 48 lần, 110 lần. Việc trả thưởng cho người mua do người bán đề trực tiếp thanh toán. Về việc hưởng lợi L khai, sau khi trả tiền hoa hồng cho những người bán thuê, trung bình mỗi ngày L được hưởng từ khoảng 80.000 đồng đến 100.000 đồng. Về nguồn thu nhập của mình, L khai có làm nghề thợ may tại nhà. Do muốn có thêm thu nhập nên đã thực hiện việc thuê người bán đề như nội dung nêu trên. Trong ngày 16/01/2017, L đã trực tiếp nhận 04 bảng đề của Lê T, H, S, C với tổng số tiền là 2.923.000 đồng và nhận qua mạng Zalo 04 bảng, trong đó L mới xác nhận 02 tin nhắn từ tài khoản Zalo của Đặng T và N, với tổng số tiền là 7.083.000 đồng. Riêng bảng ghi số đề và các số bao, đề được gửi từ tài khoản Zalo của Đặng T, L khai: Ngày 14/01/2017 có một nam giới tên B (không biết địa chỉ) xin được nộp bảng đề cho L, thấy số tiền ít nên L giới thiệu đến gặp và nhờ Đặng T gửi bảng đề qua tài khoản của Đặng T cho L. Ngày 15/01/2017, B đã nhờ Đặng T chụp ảnh 01 bảng đề gửi qua tài khoản Zalo của T, có số tiền 50.000 đồng. Ngày 16/01/2017, L tiếp tục nhận được 01 bảng đề của B, tương ứng số tiền 1.150.000 đồng từ tài khoản Zalo của Đặng T, đồng thời còn nhận được các số bao, đề được nhắn trực tiếp, có tổng số tiền là 5.800.000 đồng.
Xét hỏi, Đặng Thị T khai nhận: T làm nghề bán giò, chả trước cửa nhà L và có T nhận lời bán đề thuê cho L từ khoảng cuối năm 2016 để tăng thêm thu nhập. Từ khi bắt đầu bán đề đến khi bị phát hiện, có ngày T không bán được cho ai, ngày nhiều nhất bán được khoảng hơn 100.000 đồng nên T chưa nhận tiền công từ L. Ngày 15/01/2017, có một nam giới tên B đến gặp T và nói được L giới thiệu đến nhờ tài khoản Zalo của T để chuyển bảng đề cho L. T đồng ý và đã chuyển hộ cho B 01 bảng đề, tương ứng số tiền 50.000 đồng. Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 16/01/2017, khi T đang nấu cơm ở nhà thì thấy B đến nhờ chuyển bảng đề. Do bận nấu cơm nên T bảo B ngồi đợi ở phòng khách, một lát sau, khi T lên nhà thì thấy B đã đi về. Sau khi biết việc bán đề của L bị phát hiện, T có kiểm tra điện thoại nhưng không thấy có tin nhắn mới nào. Chỉ đến khi được cơ quan Công an hỏi, T mới biết L có nhận được 01 bảng đề và các tin nhắn số bao đề, với tổng tiền là 6.950.000 đồng được gửi từ tài khoản Zalo của mình vào ngày 16/01/2017. Về chiếc điện thoại Iphone 4 màu đen, T khai là điện thoại của con gái T, không cài mật khẩu và thường để ở bàn uống nước tại phòng khách. Trong thời gian bán đề thuê, T đã dùng điện thoại này để chuyển bảng đề cho L. Do sợ liên lụy, nên ngay sau khi biết tin L bị phát hiện, T đã hủy bỏ sim điện thoại, sau đó đem giao nộp điện thoại tại Cơ quan Công an.
Tại bản Cáo trạng số 88/CT-VKS-P2 ngày 13 tháng 6 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị L về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 60 Bộ luật Hình sự 1999.
Xử phạt:
Nguyễn Thị L: Từ 12 tháng đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách từ 24 tháng đến 30 tháng.
Về xử lý vật chứng và thu lợi bất chính: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, lời khai của những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án;
XÉT THẤY
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị L khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ngày 16/01/017, Nguyễn Thị L đã có hành vi tổ chức cho nhiều người khác đánh bạc dưới hình thức bán lô, đề. L đã nhận bảng đề của những người bán đề thuê cho mình trực tiếp chuyển đến và chuyển qua tài khoản Zalo cài đặt trên máy điện thoại của L. Do số lượng người bán thuê đề cho L dưới 10 người, số lượng tiền tham gia đánh bạc thu được là 10.006.000 đồng (dưới 20.000.000 đồng) nên căn cứ theo Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì hành vi của bị cáo Nguyễn Thị L đã phạm tội “Đánh bạc” theo Điều 248 Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Đánh giá tính chất vụ án là ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng, làm mất trật tự an toàn xã hội gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân nên cần xử lý nghiêm.
Về tình tiết định khung hình phạt:
Tổng số tiền đánh lô, đề thể hiện trên các bảng đề là 10.006.000 đồng nên bị cáo L bị xét xử theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự.
Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:
Xét nhân thân bị cáo không có tiền án, tiền sự. Sau khi bị bắt, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo đã nộp lại số tiền thu lợi bất chính; bố chồng bị cáo có thời gian tham gia kháng chiến chống Mỹ được tặng thưởng Huân chương kháng chiến. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điếm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự 1999.
Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; chồng bị cáo đã chết, bị cáo một mình nuôi con nhỏ, đang có công ăn việc làm ổn định, có nơi cư trú rõ ràng; bị cáo có đủ điều kiện được cải tạo ngoài xã hội nên cần khoan hồng cho bị cáo
Về thu lợi bất chính:
Bị cáo L khai bán lô đề đã thu lợi bất chính 8.400.000 đồng; bị cáo đã tự nguyện nộp lại số tiền này cần sung quỹ Nhà nước.
Về vật chứng: Cơ quan Công an thu giữ:
+ Đối với 01 điện thoại OPPO (có lắp sim) thu của bị cáo Nguyễn Thị L và 01 điện thoại Iphone 4 thu của chị Đặng Thị T: Các điện thoại đều được sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu, sung quỹ Nhà nước.
+ Đối với số tiền 8.400.000 đồng là tiền thu lợi bất chính do bị cáo L nộp lại cần tịch thu, sung quỹ Nhà nước.
Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị L phạm tội “Đánh bạc”.
Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 248; điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 60 Bộ luật Hình sự 1999.
Xử phạt:
Nguyễn Thị L: 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 24 (Hai mươi bốn) tháng kể từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo Nguyễn Thị L cho Ủy ban nhân dân phường B, quận C, thành phố Hải Phòng quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách.
Phạt tiền bị cáo 5.000.000 (Năm triệu) đồng để sung quỹ Nhà nước.
Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại Khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành án.
2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự; Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:
+ Tịch thu, phát mại sung quỹ Nhà nước: 01 (Một) điện thoại OPPO (có kèm sim) và 01 (Một) điện thoại Iphone 4.
+ Tịch thu, sung quỹ Nhà nước số tiền: 8.400.000 (Tám triệu bốn trăm nghìn) đồng.
(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 12/6/2017 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng và theo Biên lai thu tiền số 0001473 ngày 01/8/2017)
4. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo đối với Bản án: Bị cáo (có mặt) được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án (vắng mặt) được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc niêm yết tại địa phương.
Bản án 79/2017/HSST ngày 01/08/2017 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 79/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về