TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 79/2017/HSPT NGÀY 25/09/2017 VỀ VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB
Ngày 25 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 102/2017/HSPT ngày 30 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo Vũ Văn G do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 116/2017/HSST ngày 24/7/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.
- Bị cáo có kháng cáo:
Bị cáo Vũ Văn G, sinh năm 1975.
Nơi cư trú: Thôn B, xã T, huyện TT, tỉnh Thái Bình; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lái xe; con ông Vũ Danh T sinh năm 1950 và bà Trần Thị S sinh năm 1951; có vợ là Đỗ Thị Hải H sinh năm 1976 và có 02 con, con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không; Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.(có mặt)
- Những người tham gia tố tụng khác có kháng cáo hoặc liên quan đến kháng cáo, kháng nghị:
+Người đại diện hợp pháp của người bị hại: Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1970 (con người bị hại); địa chỉ: Thôn TM, xã T, thành phố TB, tỉnh Thái Bình. (có mặt)
+ Người đại diện theo ủy quyền của anh Nguyễn Văn S: Ông Nguyễn Tiến D sinh năm 1962; địa chỉ: Thôn O, xã T, huyện VT, tỉnh Thái Bình.(có mặt)
Trong vụ án còn có 03 người đại diện hợp pháp của người bị hại là cụ Vũ Thị T, bà Hà Thị Th, chị Nguyễn Thị H, chị Nguyễn Thị Y và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là chị Đỗ Thị Hải H không có kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vũ Văn G có giấy phép lái xe ô tô hạng E do Sở Giao thông vận tải Thái Bình cấp ngày 25/9/2014. Khoản 04 giờ 30 phút ngày 08/5/2017, Vũ Văn G điều khiển xe ô tô biển số 17B-012.43 chở khách từ bến xe khách huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình đi đến bến xe Yên Nghĩa, thành phố Hà Nội. Đến khoảng 05 giờ 10 phút cùng ngày, G điều khiển xe ô tô đi ở giữa đường theo làn đường đi của mình trên đường Quốc lộ 10S1 (hướng đi từ thành phố Thái Bình về huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình) với vận tốc khoảng 70km/h. Lúc ngày trời sáng, thời tiết khô ráo, không mưa, mặt đường phẳng, trên đường không có chướng ngại vật che khuất tầm nhìn và không có phương tiện đậu đỗ cản trở giao thông. Khi G điều khiển xe ô tô đi đến đoạn km 88+100 thuộc địa phần thôn Tân Quán, xã Tân Bình, thành phố Thái Bình, G quan sát thấy phía trước, cùng chiều, cách đầu xe ô tô khoảng 100 m có ông Nguyễn Văn Th đang điều khiển xe đạp đi cùng làn đường xe ô tô của G đang đi, G dùng tín hiệu còi xe ô tô xin vượt xe đồng thời tăng tốc độ khoảng 93km/h nhưng ông Th vẫn giữ nguyên hướng đi, không tránh về bên phải theo chiều đường đi. Thấy vậy, G giữ nguyên tốc độ xe, điều khiển xe ô tô sang bên trái vào làn đường giáp dải phân cách cứng chia hai chiều đường để vượt qua ông Th. Khi hai xe còn cách nhau khoảng 10m thì ông Th bất ngờ điều khiển xe đạp đi sang phía bên trái đường và đi vào phần đường ô tô G đang đi. Thấy vậy, G phanh nhẹ và điều khiển xe ô tô đi sang trái để vượt qua ông Th. Do khoảng cách của hai phương tiện quá gần nên cạnh trước dưới ba đờ sốc bên phải của xe ô tô đã va chạm với đầu sau giá đèo hàng phía sau xe đạp của ông Th làm ông Th ngã xuống đường. G đạp phanh gấp khiến ô tô vượt đè lên giải phân cách khoản 25m thì dừng lại. Hậu quả ông Nguyễn Văn Th chết tại chỗ. Sau khi tai nạn xảy ra, G đã đến cơ quan Công an trình báo.
Tại bản kết luận pháp y tử thi số 111PY/2017/TT ngày 12/5/2017 của Trung tâm Pháp y Sở Y tế tỉnh Thái Bình kết luận: Ông Nguyễn Văn Th bị đa chấn thương vùng đầu và toàn thân do tai nạn giao thông gây vỡ xương sọ vùng trán thái dương trái thành nhiều mảnh, xương vỡ lúc vào trong, qua khê vỡ máu vẫn chảy ra nhiều, dập não. Ông Nguyễn Văn Th chết do chấn thương sọ não.
Bản án hình sự sơ thẩm số 116/2017/HSST ngày 24/7/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình quyết định:
1. Tuyên bố bị cáo Vũ Văn G phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.
2. Hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội, khoản 3 Điều 7, điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Vũ Văn G 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 03/8/2017 bị cáo Vũ Văn G kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo. Ngày 03/8/2017 người đại diện hợp pháp của người bị hại là anh Nguyễn Văn S kháng cáo xin cho bị cáo được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
- Bị cáo Vũ Văn G vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo, bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo xin nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
- Người đại diện hợp pháp của người bị hại là anh Nguyễn Văn S đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình sau khi phân tích toàn bộ nội dung vụ án, xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo kháng cáo, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân cũng như nội dung kháng cáo của bị cáo G và người đại diện hợp pháp của người bị hại là anh Sơn đã đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 248, điểm đ khoản 1 Điều 249 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 202, điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 60 Bộ luật hình sự chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Văn G và người đại diện hợp pháp của người bị hại là anh Nguyễn Văn S, giữ nguyên mức hình phạt tù của án sơ thẩm chuyển biện pháp chấp hành hình phạt, cho bị cáo hưởng án treo.
Căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Kháng cáo của bị cáo và người đại diện hợp pháp của người bị hại làm trong thời hạn luật định là hợp lệ nên được chấp nhận xem xét theo trình tự xét xử phúc thẩm.
[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo Vũ Văn G: Khoản 05 giờ 20 phút ngày 08/5/2017, Vũ Văn G (có giấy phép lái xe ô tô hàng E) điều khiển xe ô tô khách biển số 17B-012.43 chở khách đi trên đường Quốc lộ 10S1 đoạn km88+100 thuộc địa phận thôn Tân Quán, xã Tân Bình, thành phố Thái Bình theo hướng từ xã Tân Bình đến huyện Vũ Thư với vận tốc khoảng 93km/h (tốc độ cho phép 90 km/h), vượt xe đạp đi cùng chiều phía trước do ông Nguyễn Văn Th điều khiển khi ông Th chưa điều khiển xe tránh về phía bên phải nên cạnh trước dưới ba đờ sốc bên phải của xe ô tô đã va chạm với đầu sau giá đèo hàng phía sau xe đạp của ông Th làm ông Th ngã xuống đường, chết tại chỗ do chấn thương sọ não. Nguyên nhân dẫn đến vụ tai nạn giao thông chủ yếu do lỗi của bị cáo khi điều khiển xe ô tô không giữ khoảng cách an toàn đối với xe đạp do người bị hại điều khiển đi trước liền xe của bị cáo, vượt xe do người bị hại điều khiển khi người bị hại chưa điều khiển xe tránh về bên phải và đi quá tốc độ tối đa cho phép. Tuy nhiên người bị hại cũng có một phần lỗi khi sang đường không quan sát. Hành vi điều khiển xe ô tô của bị cáo Vũ Văn G đã vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 12, khoản 2 Điều 14 Luật giao thông đường bộ và Điều 7 Thông tư số 91/2015/TT-BGTVT ngày 31/12/2015 của Bộ giao thông vận tải quy định về tốc độ và khoảng cách an toàn của xe cơ giới tham gia giao thông đường bộ gây hậu quả làm ông Nguyễn Văn Th bị chết. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo G về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Xét nội dung kháng cáo của bị cáo và người đại điện hợp pháp của người bị hại là anh Nguyễn Văn S thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây ra tai nạn giao thông nghiêm trọng, gây thiệt hại về tính mạng của người bị hại, gây mất mát, đau thương cho gia đình người bị hại. Nhưng do bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; người bị hại cũng có một phần lỗi và người đại diện hợp pháp của người bị hại xin cho bị cáo được hưởng án treo; bố và mẹ bị cáo đều được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến được xác định là người có công với cách mạng - quy định tại các điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 do bố và mẹ bị cáo đều được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến là không đúng.
Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử bị cáo G mức án 09 tháng tù là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, bị cáo G có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, ngoài hành vi phạm tội lần này bị cáo không có vi phạm pháp luật nào khác, có nơi cư trú rõ ràng. Xét thấy, bị cáo có khả năng tự cải tạo và việc để bị cáo cải tạo ngoài xã hội không ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Do đó cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo G và người đại diện hợp pháp của người bị hại là anh S, sửa án sơ thẩm giữ nguyên mức hình phạt tù và cho bị cáo hưởng án treo là phù hợp với quy định của pháp luật và chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta, tạo điều kiện để bị cáo cải tạo và sửa chữa sai lầm, sớm trở thành người công dân có ích cho xã hội và gia đình.
[4]. Về án phí: Bị cáo G và anh Sơn kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị .
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 248; điểm đ khoản 1 Điều 249 của Bộ luật tố tụng hình sự.
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Văn G và người đại diện hợp pháp của người bị hại là anh Nguyễn Văn S. Sửa bản án sơ thẩm số 116/2017/HSST ngày 24 tháng 7 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình về biện pháp chấp hành hình phạt đối với bị cáo Vũ Văn G.
Áp dụng khoản 1 Điều 202; điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; khoản 1 và khoản 2 Điều 60 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Vũ Văn G 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 25/9/2017.
Giao bị cáo Vũ Văn G cho Uỷ ban nhân dân xã Thụy Phúc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.
2. Về án phí: Bị cáo Vũ Văn G, anh Nguyễn Văn S không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án 25/9/2017./
Bản án 79/2017/HSPT ngày 25/09/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB
Số hiệu: | 79/2017/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/09/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về