Bản án 78A/2020/HSST ngày 16/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI - TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 78A/2020/HSST NGÀY 16/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý s: 74/2020/TLST- HS ngày 18 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 76/2020/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn V, sinh ngày 19/9/1981 tại xã N, huyện H, tỉnh Thái Bình.

Nơi cư trú:Thôn L, xã P, huyện H, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp lao động tự do; trình độ văn hóa: 05/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: V Nam; con ông Nguyễn Đức H và bà Trần Thị L; vợ là Trần Thị M và có 02 con; tiền sự: không; tiền án: Có 01 tiền án: Bản án số 18/HSPT ngày 26/02/2016 Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xử phạt Bị cáo 05 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Nhân thân: Bản án số 34/HSST ngày 19/12/2000 Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xử phạt bị cáo 02 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm 06 tháng về tội “Cố ý gây thương tích”; Quyết định xử phạt hành chính số 108/QĐ/XPVPHC ngày 29/3/2006 Công an huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xử phạt bị cáo 500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc”; Quyết định xử phạt hành chính số 04088/QĐ/XPVPHC ngày 21/10/2015 Công an huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xử phạt bị cáo 2.000.000 đồng về hành vi “Cố ý làm hư hỏng tài sản”; Bản án số 07/HSST ngày 03/3/2011 Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 30/9/2020 đến ngày 03/10/2020 chuyển tạm giam. Bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Tiền Hải, được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

+ Người làm chứng:

- Anh Lê Văn L, sinh năm 1979 (Vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ dân phố S, thị trấn T, huyện H, tỉnh Thái Bình.

- Anh Phạm Văn Đ, sinh năm 1990 (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Thôn N, xã H, huyện H, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do bị nghiện ma túy nên khoảng 09 giờ 30 phút ngày 30/9/2020, V đi bộ từ nhà ra đường rồi đi nhờ xe của một người không quen biết đến xã N, huyện H để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến trục đường bê tông thuộc cánh đồng thôn T, xã N, V xuống xe và gặp 01 người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ, do nghi ngờ người này bán ma túy nên V đã hỏi người đàn ông “Anh có ma túy không bán cho em 100.000nghifn đồng” thì người đàn ông này đồng ý. V đưa cho người đàn ông 100.000 đồng và người đàn ông đưa cho V 01 gói được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, biết đó là ma túy, V cầm cất vào túi quần bên phải phía trước đang mặc rồi đi tìm chỗ sử dụng. Khi V đi đến khu vực nhà hoang thuộc cánh đồng thôn T, xã N thì tổ công tác Công an huyện Tiền Hải phát hiện, bắt quả tang. Tại đây, trước sự chứng kiến của chính quyền địa phương và những người làm chứng, V tự giác lấy trong túi quần bên phải phía trước đang mặc ra 01 gói được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục giao nộp cho tổ công tác. V khai đó là gói Heroine vừa mua được của một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ ở khu vực trục đường bê tông thuộc cánh đồng thôn T, xã N với giá 100.000 đồng, mục đích để sử dụng cho bản thân. Khám xét tại chỗ ở của Nguyễn Văn V tại Thôn L, xã P, huyện H lực lượng Công an không thu giữ tài sản, đồ vật gì Tại bản Kết luận giám định số 359/KLGĐMT-PC09 ngày 01/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình, kết luận: mẫu gửi giám định là ma túy loại Heroine, có khối lượng 0,1467 gam.

Tại bản cáo trạng số 75/CT-VKSTH ngày 17/11/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Nguyễn Văn V về tội: “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c, khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: “Do bị nghiện ma túy nên vào 09 giờ 30 phút ngày 30/9/2020, bị cáo ra đường rồi nhờ xe của một người không quen biết đến xã N, huyện H để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến trục đường bê tông thuộc cánh đồng thôn T, xã N, bị cáo xuống xe và gặp 01 người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ, do nghi ngờ người này bán ma túy nên bị cáo hỏi người đó có ma túy không bán cho bị cáo 01 gói thì người này đồng ý. bị cáo đưa cho người đàn ông 100.000 đồng và người đàn ông đưa cho bị cáo 01 gói được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, biết đó là ma túy, bị cáo cầm cất vào túi quần bên phải phía trước đang mặc rồi đi tìm chỗ sử dụng. Khi bị cáo đi đến khu vực nhà hoang thuộc cánh đồng thôn T, xã N thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang và bị cáo đã tự nguyện giao nộp gói ma túy vừa mua cho lực lượng Công an”.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố nhà nước tại phiên toà vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1 điều 51, điểm h khoản 1 điều 52, điều 38, điều 50 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V từ 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù đến 02 (Hai) năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; điều 47 Bộ luật Hình sự: Tịch thu tiêu hủy số Heroine đã thu giữ của bị cáo sau khi hoàn giám định còn lại là 0,0931 gam.

- Về án phí: Áp dụng điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23,Nghị quyết số 326 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, Bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với Kiểm sát viên về bản luận tội.

Kết thúc phần tranh luận bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố vụ án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Bị cáo và những người làm chứng không khiếu nại hay có ý kiến gì. Nên các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án này là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải đã truy tố đối với bị cáo. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án như:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Tiền Hải lập hồi 10 giờ 30 phút ngày 30/9/2020;

- Biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Công an huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình lập ngày 30/9/2020;

- Bản kết luận giám định số 359/KLGĐMT- PC 09 ngày 01/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình;

- Lời khai của những người làm chứng là anh Lê Văn L và anh Phạm Văn Đ.

Từ những tình tiết và chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

o hồi 10 giờ ngày 30/9/2020, tại khu vực nhà bỏ hoang thuộc cánh đồng thôn T, xã N, huyện H, Công an huyện Tiền Hải phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Văn V có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 0,1467 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn V đã phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tội phạm thuộc trường hợp nghiêm trọng.

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

1. “ Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) ……………………………………………………………………………

c) Heroine, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

…………………………………………………………………………………………

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

[3]. Đánh giá tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Xét thấy, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo Nguyễn Văn V là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước, làm suy thoái nòi giống con người, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự và an toàn xã hội tại địa phương.

[4]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo: Về nhân thân: Bị cáo nhân thân xấu, có 01 tiền án về tội “Cố ý gây thương tích” và năm 2000 bị Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải xử phạt 02 năm tù cho hường án treo về tội “Cố ý gây thương tích”, năm 2011 bị Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và hai lần bị Công an huyện Tiền Hải xử phạt vi phạm hành chính.

Về tình tiết tăng năng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự là “Tái phạm”.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự : Trong giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5]. Về hình phạt:

[5.1]. Về hình phạt chính: Xét thấy, ma túy là hiểm họa của toàn xã hội, là nguyên nhân gây ra căn bệnh HIV/AIDS và là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Trong lúc Đảng và Nhà nước ta đang kiên quyết đấu tranh với tệ nạn ma túy để đẩy lùi ma túy ra khỏi đời sống xã hội. Bị cáo là người đã trưởng thành đã từng bị Tòa án xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy, hơn ai hết bị cáo là người hiểu rõ tác hại của việc sử dụng ma túy nhưng bị cáo lại không lấy đó làm bài học cho mình để tu chí cai nghiện trở thành người lương thiện mà tiếp tục thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, hành vi của bị cáo cần thiết phải xử phạt bằng hình phạt tù, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội do bị cáo gây ra mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét đến tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để giảm nhẹ một phần mức hình phạt tù cho bị cáo như đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa và thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

[5.2]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo là người nghiện ma túy, không có việc làm ổn định, bị cáo tàng trữ ma túy không nhằm mục đích bán kiếm lời nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án: Số Heroine thu giữ của bị cáo sau khi hoàn giám định còn lại là 0,0931 gam đây là loại nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7]. Về nguồn gốc số Heroine: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo khai số Heroine là do bị cáo mua của một người đàn ông không biết tên, tuổi và địa chỉ tại trục đường bê tông thuộc cánh đồng thôn Thiện Tường, xã Nam Thịnh với giá 100.000đồng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiền Hải đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không có căn cứ để xử lý.

[8]. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1 điều 51, điểm h khoản 1 điểu 52, điều 50, điều 38, điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 điều 106, khoản 2 điều 136; điều 331, điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn V phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2/ Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù.Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 30/9/2020.

3/ Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy sau khi đã hoàn giám định còn lại là 0,0931 gam Heroine được niêm phong trong phong bì số 359/KLGĐ.

(Vật chứng của vụ án đã được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiền Hải theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/11/2020 giữa Công an huyện Tiền Hải và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiền Hải).

4/ Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn V phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 16/12/2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 78A/2020/HSST ngày 16/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:78A/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về