TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 78/2021/HS-ST NGÀY 26/05/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 26 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 63/2021/TLST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2021/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2021 đối với các bị cáo:
1. Hoàng Văn Th, sinh năm 1985 tại Thanh Hóa; nơi thường trú: Thôn Q1, xã TH, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn X (đã chết) và bà Hà Thị G, sinh năm 1958; bị cáo có vợ và 02 con (sinh năm 2009 và năm 2011); tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại;
có mặt.
2. Văng Thị Ánh H, sinh năm 1987 tại An Giang; nơi thường trú: Khu phố Đ 2, phường M, Thành phố L, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Văng Công B (đã chết) và bà Ngô Thị T (đã chết); bị cáo có chồng và 02 người con (sinh năm 2003 và năm 2010); tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại; có mặt.
3. Nguyễn Văn T, sinh năm 1981 tại Kiên Giang; nơi thường trú: Ấp 4, thị trấn S, huyện H, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C (đã chết) và bà Nguyễn Thị H (đã chết); bị cáo có vợ và 01 người con sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại; có mặt.
4. Nguyễn Thị Bòn A, sinh năm 1985 tại An Giang; nơi thường trú: Ấp P, xã X, huyện T, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con Nguyễn Văn K (đã chết) và bà Nguyễn Thị C1, sinh năm 1933; bị cáo có chồng và 02 người con (sinh năm 2004 và năm 2017); tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại; có mặt.
5. Đặng Thị Thúy R, sinh năm 1985 tại Hậu Giang; nơi thường trú: Khu vực 5, phường H, Thành phố N, tỉnh Hậu Giang; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con Đặng Văn L, sinh năm 1953 và bà Trần Thị Ngọc E, sinh năm 1955; bị cáo có 01 người con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại; có mặt.
6. Trần Ngọc K, sinh năm 1970 tại Hậu Giang; nơi thường trú: Khu vực 5, phường H, Thành phố N, tỉnh Hậu Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con Trần Lài H1 (đã chết) và bà Lê Thị S (đã chết); bị cáo có 01 người con sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hoàng Văn Th, Nguyễn Thị Bòn A, Văng Thị Ánh H, Nguyễn Văn T, Trần Ngọc K và Đặng Thị Thúy R là bạn bè với nhau.
Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 27/9/2020, Th, T, A, K và R đến nhà trọ của ông Đ dự tiệc. Khi đến nơi Th, T, A, K và R thấy còn sớm nên đi vào phòng trọ số 10 của H thuê chơi. Th rủ các bị cáo T, A, K, R và H chơi đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức đánh bài binh 06 lá mỗi ván đặt cược 100.000 đồng các bị cáo luân phiên nhau làm cái. Do không có bài nên H nhờ cháu bé (không rõ nhân thân) mua giúp bộ bài tây 52 lá. Bị cáo T làm cái để các bị cáo khác tiến hành đánh bạc được thua bằng tiền thì bị Công an phường Tân Hiệp kiểm tra phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ: 01 bộ bài tây 52 lá, số tiền 9.600.000 đồng và 01 ví da màu đen.
Hoàng Văn Th khai: Mang theo số tiền 3.000.000 đồng, sử dụng số tiền 1.000.000 đồng đánh bạc. Khi bị bắt bị cáo không thắng cũng không thua. Bị cáo bị thu giữ 1.000.000 đồng tại vị trí đánh bạc và 2.000.000 đồng.
Văng Thị Ánh H khai: Sử dụng số tiền 700.000 đồng đánh bạc. Khi bị bắt bị cáo thắng 100.000 đồng. Bị cáo bị thu giữ 800.000 đồng tại vị trí đánh bạc.
Nguyễn Văn T khai: Sử dụng số tiền 6.400.000 đồng đánh bạc. Khi bị bắt bị cáo không thắng cũng không thua. Bị cáo bị thu giữ 6.400.000 đồng tại vị trí đánh bạc.
Nguyễn Thị Bòn A khai: Mang theo số tiền 4.500.000 đồng, sử dụng số tiền 900.000 đồng đánh bạc. Khi bị bắt bị cáo thua 100.000 đồng. Bị cáo bị thu giữ 800.000 đồng tại vị trí đánh bạc và 3.600.000 đồng.
Đặng Thị Thúy R khai: Mang theo số tiền 3.550.000 đồng, sử dụng số tiền 400.000 đồng đánh bạc. Khi bị bắt bị cáo thắng 200.000 đồng. Bị cáo bị thu giữ 600.000 đồng tại vị trí đánh bạc và 3.150.000 đồng.
Trần Thị K khai: Sử dụng số tiền 200.000 đồng đánh bạc. Khi bị bắt bị cáo thua hết 200.000 đồng.
Cáo trạng số 75/CT-VKS.TU ngày 15 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã truy tố các bị cáo Hoàng Văn Th, Nguyễn Thị Bòn A, Văng Thị Ánh H, Nguyễn Văn T, Trần Ngọc K và Đặng Thị Thúy R về tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt các bị cáo:
Hoàng Văn Th từ 06 đến 09 tháng tù.
Văng Thị Ánh H từ 06 đến 09 tháng tù.
Nguyễn Thị Bòn A từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng. Nguyễn Văn T từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng.
Trần Ngọc K từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng. Đặng Thị Thúy R từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng.
Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử: Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tây loại 52 lá đã qua sử dụng; tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc 9.600.000 đồng; trả cho các bị cáo số tiền không sử dụng đánh bạc là 8.750.000 đồng và 01 ví da màu đen.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và không có ý kiến tranh luận. Trong phần trình bày lời nói sau cùng, các bị cáo đã nhận thấy hành vi của mình là sai trái, ăn năn hối cải, các bị cáo đều có trình độ học vấn thấp và là lao động chính trong gia đình nên xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Riêng đối với Lệnh Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với các bị cáo Cơ quan cảnh sát điều tra không yêu cầu các bị cáo phải làm giấy cam đoan và không ghi rõ thời gian cấm đi khỏi nơi cứ trú là vi phạm khoản 2, khoản 4 Điều 123 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Hoàng Văn Th, Nguyễn Thị Bòn A, Văng Thị Ánh H, Nguyễn Văn T, Trần Ngọc K và Đặng Thị Thúy R đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã truy tố. Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Ngày 27/9/2020, tại khu phố O, phường H, thị xã T, tỉnh Bình Dương các bị cáo Hoàng Văn Th, Nguyễn Thị Bòn A, Văng Thị Ánh H, Nguyễn Văn T, Trần Ngọc K và Đặng Thị Thúy R đã thực hiện hành vi đánh bạc được thua bằng tiến dưới hình thức đánh bài binh 06 lá. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc là 9.600.000 đồng. Do đó, hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Như vậy, đủ căn cứ khẳng định nội dung Cáo trạng số 75/CT-VKS.TU ngày 15 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Hiện nay tình hình an ninh, trật tự tại các địa bàn có nhiều người nhập cư đang diễn biến phức tạp, các tệ nạn xã hội và tội phạm được thực hiện dưới nhiều hình thức gây khó khăn cho công tác đấu tranh và phòng ngừa tội phạm của cơ quan chức năng. Để từng bước ngăn chặn, đẩy lùi tội phạm cần phải xử các bị cáo thật nghiêm mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét toàn diện về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo.
Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt, có trình độ học vấn thấp, lao động phổ thông và là lao động chính trong gia đình.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[4] Đây là vụ án có đồng phạm giản đơn các bị cáo cùng nhau thực hiện tội phạm. Trong đó, bị cáo Th là người khởi xướng, bị cáo H nhờ người mua bài, bị cáo T là người làm cái và sử dụng số tiền đánh bạc nhiều nhất, bị cáo K sử dụng số tiền đánh bạc ít nhất còn các bị cáo khác tham gia với số tiền ngang nhau. Xét thấy, các bị cáo đánh bạc với số tiền không lớn, các bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng và nghề nghiệp ổn định, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thật sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự các bị cáo được hưởng, xét thấy việc áp dụng hình phạt tiền không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nên Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục các bị cáo đồng thời thể hiện được chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội lần đầu và tạo điều kiện cho các bị cáo được tiếp tục lao động nuôi sống bản thân và gia đình.
[5] Mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị đối với các bị cáo A, R, T là phù hợp. Tuy nhiên, mức hình phạt đề nghị áp dụng đối với các bị cáo Th, H và K là quá nghiêm khắc.
[6] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:
Đối với số tiền 9.600.000 đồng là tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước;
01 bộ bài tây loại 52 lá là công cụ phạm tội, không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy;
01 ví da bị cáo T không yêu cầu nhận lại và không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
Số tiền 8.750.000 đồng của các bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho các bị cáo.
[7] Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố các bị cáo Hoàng Văn Th, Nguyễn Thị Bòn A, Văng Thị Ánh H, Nguyễn Văn T, Đặng Thị Thúy R và Trần Ngọc K phạm tội “Đánh bạc”.
1. Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35 và Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt:
Hoàng Văn Th 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng); Văng Thị Ánh H 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng); Nguyễn Thị Bòn A 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng); Nguyễn Văn T 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng); Đặng Thị Thúy R 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng); Trần Ngọc K 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).
2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Tịch thu tiêu hủy: 01 bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng và 01 cái (bóp) ví da màu đen đã qua sử dụng;
- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 9.600.000 đồng (Chín triệu sáu trăm nghìn đồng);
- Trả lại bị cáo Hoàng Văn Th số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng);
- Trả lại bị cáo Nguyễn Thị Bòn A 3.600.000 đồng (Ba triệu sáu trăm nghìn đồng).
- Trả lại bị cáo Đặng Thị Thúy R 3.150.000 đồng (Ba triệu một trăm năm mươi nghìn đồng).
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18 tháng 5 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương).
3. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Hoàng Văn Th, Nguyễn Thị Bòn A, Văng Thị Ánh H, Nguyễn Văn T, Trần Ngọc K, Đặng Thị Thúy R mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 78/2021/HS-ST ngày 26/05/2021 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 78/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về