TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 78/2021/HS-PT NGÀY 21/01/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI VÀ HỦY HOẠI TÀI SẢN
Ngày 21 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Cần Thơ, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 576/2020/TLPT- HS ngày 21 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo Trần Văn U do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 42/2020/HSST ngày 10 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ
- Bị cáo có kháng cáo: Trần Văn U, sinh năm 1985, tại Cần Thơ; nơi cư trú: khu vực B, phường P, quận O, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 07/12; Dân tộc: kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Giới tính: Nam; con ông Lê Hữu L và bà Lê Thị H; anh chị em ruột có 04 người, lớn nhất sinh năm 1971, nhỏ nhất sinh năm 1982; tiền án, tiền sự: không;
Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/02/2020 cho đến nay (có mặt)
- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Bà Lê Thị Ngọc D – Luật sư, Đoàn luật sư thành phố Cần Thơ (có mặt)
(Ngoài ra, vụ án còn có 05 bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào năm 2016, Trần Văn U ngụ tại phường P, quận O, thành phố Cần Thơ có quen biết và nảy sinh tình cảm yêu đương với bà Bùi Thị H ngụ cùng khu vực với U. Trong thời gian quen biết, H lần lượt mượn U tổng số tiền 12.500.000 đồng. Đến năm 2017, bà H tiếp tục mượn tiền U nhưng U không đồng ý nên xảy ra mâu thuẫn và chấm dứt tình cảm với nhau. Sau đó, U đòi nhiều lần nhưng bà H không trả. Đến ngày 20/02/2020, U gọi điện thoại cho bà H để đòi tiền nhưng H vẫn không trả, U nhắn tin đe dọa “Mày không trả tiền cho tao thì tao giết mày”.
Khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 21/02/2020 U điều khiển xe mô tô biển số 65E1-026.04 đến chợ S thuộc phường P, quận O mua một can nhựa màu trắng khoảng 10 lít. Sau đó, đến quán café V thuộc phường P uống café và gửi can nhựa tại đây. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, U đến quán café lấy can nhựa đã gửi trước đó và đi đến cây xăng đối diện quán café mua 160.000 đồng tiền xăng tương đương 8,65 lít xăng E5. Sau khi mua xăng, U mang về cất giấu tại bụi tre gần nhà của U. Đến 00 giờ ngày 22/02/2020, biết tất cả những người trong nhà bà H đã ngủ, U lấy 01 cây bulong bằng kim loại dài khoảng 13cm, có hình xoắn ốc, một đầu có 01 con ốc bằng kim loại; 01 đoạn dây kẽm dài 10cm, một bật lửa, 01 thùng nhựa (loại thùng bê đựng sơn) rồi đến bụi tre lấy can xăng và đi đến nhà bà H cách nhà U khoảng 30m. Khi đi đến nhà bà H, U lấy bùn ở dưới mương cạnh nhà bà H bỏ vào thùng bê, xách thùng bê và can xăng đến nhà bà H. Sau đó, U dùng cây bulong gài vào khoen khóa chốt ngoài cửa nhà bà Hồ Thị Thanh X (cặp vách nhà bà H) với mục đích không cho người nhà bà X chạy ra dập lửa và truy hô, mặt khác không để gia đình bà H chạy ra ngoài nhờ nhà bà X, vì U biết nhà H và nhà bà X có cánh cửa nhà sau thông giữa hai nhà. Tiếp đó, U lấy bùn đắp thành vòng bờ bao trước cửa nhà bà H với mục đích khi đổ xăng thì chảy vào nhà bà H, không chảy ra ngoài. Sau đó, U lấy miếng vải quấn vào dây kẽm làm mồi lửa, rồi lấy can xăng đổ vào trong nhà, U bật lửa vào cây mồi lửa ném vào chỗ đổ xăng, thấy lửa cháy lớn, U mới bỏ đi. Lúc này, ông Hồ Dũng Th (chồng bà H) nằm ở phòng khách phát hiện lửa cháy nên chạy vào phòng ngủ kêu bà H và hai người con là Hồ Thiên A và Hồ Thị Huyền Tr chạy qua nhà bà X bằng cửa thông phía sau. Đồng thời kêu bà X dậy mở cửa chính để thoát ra ngoài, nhưng cửa chính bị chốt nên mọi người không chạy ra được. Ông Th chạy ra phía sau nhà mở cửa chạy thoát được ra bên ngoài và chạy đến cửa chính nhà bà X mở lấy con bulong ra, rồi mở cửa nhà giải cứu những người trong nhà ra ngoài an toàn, đồng thời truy hô nhờ giúp dập lửa.
Sau khi dập lửa xong, ông Th bị bỏng và được gia đình đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa thành phố Cần Thơ. Nhà bà H bị hư hỏng nhiều tài sản, lửa cũng cháy qua nhà bà Hồ Thị Thanh X làm hư hỏng một số tài sản.
Trần Văn U sau khi gây án bỏ trốn. Đến 16 giờ 00 ngày 22/02/2020, Trần Văn U đến Công an quận O, thành phố Cần Thơ đầu thú.
Tại Bản kết luận giám định số 52/TgT ngày 25/34/2020 của Trung tâm giám định pháp y thuộc Sở Y tế Cần Thơ, xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại của Hồ Dũng Th là 24%, các vết thương tích trên cơ thể ông Th phù hợp với cơ chế bỏng do nhiệt độ cao, diện rộng gây ra.
Tại Bản kết luận giám định số 77 ngày 03/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Càn Thơ kết luận: Can nhựa màu trắng, còn nắp (ký hiệu A3) gửi giám định có thành phần xăng dầu.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 07 ngày 24/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận O kết luận: giá 64,m2 la phông nhà bà Thanh Xuân tại thời điểm hủy hoại là 5.850.000 đồng.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 08 ngày 25/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận O kết luận: giá trị của tài sản bị hủy hoại của nhà bà H là 20.765.000 đồng.
Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo Trần Văn U đã bồi thường tiền sửa nhà, chi phí điều trị thương tích cho ông Hồ Dũng Th theo như yêu cầu của vợ chồng ông Th và bà H với tổng số tiền 62.000.000 đồng, trong đó đã trừ 12.500.000 đồng mà bà H mượn của Trần Văn U; bồi thường thiệt hại tài sản cho bà X với số tiền 5.500.000 đồng theo yêu cầu của bà X.
* Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 42/2020/HSST ngày 10 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ, quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn U phạm tội “Giết người” và tội “Hủy hoại tài sản”.
Áp dụng: điểm a, b, l, n khoản 1 Điều 123; khoản 1 Điều 178; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015 Xử phạt: Bị cáo Trần Văn U 19 (mười chín) năm tù về tội “Giết người” và 02 (hai) năm tù về tội “Hủy hoại tài sản”, tổng hợp hình phạt chung, buộc bị cáo chấp hành 21 (hai mươi mốt) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 22/02/2020.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo vụ án theo luật định Ngày 23/9/2020, bị cáo Trần Văn U có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao phát biểu quan điểm như sau:
Chỉ vì chấm dứt quan hệ tình cảm và đòi tiền người bị hại không được mà bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm, bị cáo phạm tội với 04 tình tiết định khung. Vì vậy, mức hình phạt mà cấp sơ thẩm đã tuyên phạt là phù hợp.
Đề nghị không chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
* Luật sư bào chữa cho bị cáo có quan điểm cho rằng: Mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt bị cáo là quá cao; bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, chưa tiền án, tiền sự, đã khắc phục hậu quả; phía bị hại đã bãi nại cho bị cáo; sau khi phạm tội đã ra đầu thú. Bị cáo phạm tội do không kiềm chế được cảm xúc và do bực tức đối với bị hại. Hậu quả chết người không xảy ra, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp chưa đạt.
Đề nghị chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhậ ộạm tội đúng như nội dung bản án sơ thẩm. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với nhữ ệu, chứng cứ khác tại hồ sơ, nhưng vẫn cho rằng mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt là nặng. Đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo, Hội đồ cấp phúc thẩm thấy rằng:
Chỉ vì chấm dứt quan hệ tình cảm dẫn đến mâu thuẫn, bị cáo Trần Văn U đã nhiều lần đòi nợ bà H nhưng bà H không trả; bị cáo cho rằng bản thân bị H lợi dụng, khinh thường nên đã dùng điện thoại di động nhắn tin đe dọa giết bà H và gia đình nhằm thỏa mãn cơn tức giận. Để thực hiện ý định của mình, bị cáo đã mua 8,65 lít xăng E5, 01 cây bu lông bằng kim loại dài 13cm, một bật lửa, một thùng nhựa.
Vào khoảng 00 giờ ngày 22/02/2020, trong lúc bà H và chồng con đang ngủ, bị cáo U lấy bùn ở dưới mương cạnh nhà bà H bỏ vào thùng bê, xách thùng bê và can xăng đến nhà bà H. Sau đó U dùng cây bulong gài vào khoen khóa chốt ngoài cửa nhà bà Hồ Thị Thanh X (cặp vách nhà bà H) với mục đích không cho người nhà bà X chạy ra dập lửa và truy hô, mặt khác không để gia đình bà H chạy ra ngoài nhờ nhà bà X, vì bị cáo biết nhà bà H và nhà bà X có cánh cửa nhà sau thông giữa hai nhà. Tiếp đó, U lấy bùn đắp thành vòng bờ bao trước cửa nhà bà H với mục đích khi đổ xăng thì chảy vào nhà bà H, không chảy ra ngoài. Sau đó, U lấy miếng vải quấn vào dây kẽm làm mồi lửa, rồi lấy can xăng đổ vào trong nhà, U bật lửa vào cây mồi lửa ném vào chỗ đổ xăng, thấy lửa cháy lớn, U mới bỏ đi. Lúc này, ông Hồ Dũng Th (chồng bà H) nằm ở phòng khách phát hiện lửa cháy nên chạy vào phòng ngủ kêu bà H và hai người con là Hồ Thiên A, sinh năm 2005 và Hồ Thị Huyền Tr, sinh năm 2007 chạy qua nhà bà X bằng cửa thông phía sau. Đồng thời kêu bà X dậy mở cửa chính để thoát ra ngoài, nhưng cửa chính bị chốt nên mọi người không chạy ra được. Ông Th chạy ra phía sau nhà mở cửa chạy thoát được ra bên ngoài và chạy đến cửa chính nhà bà X mở lấy con bulong ra, rồi mở cửa nhà giải cứu những người trong nhà ra ngoài an toàn, đồng thời truy hô nhờ giúp dập lửa.
Hậu quả làm cho ông Hồ Dũng Th bị cháy bỏng với tỷ lệ tổn thương do thương tích gây nên hiện tại là 24% và làm cháy, hư hỏng tài sản trong nhà bà Bùi Thị H và nhà bà Hồ Thị Thanh X theo kết quả định giá thiệt hại tài sản với tổng số giá trị là 26.570.000 đồng.
[2] Hành vi của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác được luật pháp bảo vệ; bị cáo thực hiện hành vi phạm tội có dự mưu và chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội. Việc Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo về tội “Giết người” theo điểm a, b, l, n khoản 1 Điều 123, khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017, có căn cứ, đúng người và đúng tội.
[3] Về tính chất mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hình phạt xét thấy:
Đối với tội “Giết người”: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp có 4 tình tiết định khung tại khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015; trong đó có tình tiết “Phạm tội bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người” nên tội phạm đã hoàn thành về hành vi, việc các bị hại không chết là nằm ngoài ý muốn của bị cáo, hành vi phạm tội có mức độ đặc biệt nguy hiểm.
Đối với tội “Hủy hoại tài sản”: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp hành vi có mức độ nguy hiểm cao.
Chính vì vậy, mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo là phù hợp và đảm bảo được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Yêu cầu kháng cáo của bị cáo là không có cơ sở để chấp nhận.
[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
[5] Do kháng cáo không được chấp nhận, vì vậy bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm theo luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 355 của Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Trần Văn U; giữ nguyên bản án sơ thẩm số 42/2020/HSST ngày 10 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ.
Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn U phạm tội “Giết người” và tội “Hủy hoại tài sản”.
Áp dụng: điểm a, b, l, n khoản 1 Điều 123; khoản 1 Điều 178; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015 Xử phạt: Bị cáo Trần Văn U 19 (mười chín) năm tù về tội “Giết người” và
02 (hai) năm tù về tội “Hủy hoại tài sản”, tổng hợp hình phạt chung, buộc bị cáo chấp hành 21 (hai mươi mốt) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 22/02/2020. Tiếp tục giam giữ bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án.
Bị cáo Trần Văn U phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 78/2021/HS-PT ngày 21/01/2021 về tội giết người hủy hoại tài sản
Số hiệu: | 78/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về