Bản án 78/2020/HSST ngày 20/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 78/2020/HSST NGÀY 20/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 89/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 114/2020/QĐXXST- HS ngày 06 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Nhật A, Tên gọi khác: không;

Sinh ngày: 05/02/1987 tại BT.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Khu phố B, phường C, TP.PT, tỉnh BT;

Dân tộc: Kinh Quốc tịch: Việt Nam Tôn giáo: Thiên chúa.

Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Buôn bán Cha: ông Trần Đình D, (đã chết) Mẹ: bà Trần Xuân Minh E, sinh năm 1965; Nghề nghiệp: buôn bán; Trú tại: Khu phố B, phường C, TP.PT, tỉnh BT;

Anh chị em ruột: Có 03 người, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân: Ngày 11/01/2010, bị Tòa án nhân dân thành phố PT xử phạt 24 tháng tù về tội "Giao cấu với trẻ em". Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt, nộp đủ án phí và đã được xóa án tích.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ ngày 14/11/2019 Trần Nhật A (sinh năm 1987; trú tại:

20 đường F, khu phố B, phường C, tp PT) đang ở nhà thì Ngô Văn G (sinh năm 1993, trú tại: khu phố H, TT. I, huyện J) đến nhà chơi, khoảng 30 phút sau thì có thêm K (bạn quen ngoài xã hội của A, không rõ nhân thân) cũng đến chơi. Do có nhu cầu sử dụng ma túy, nên A nhờ K biết chỗ nào bán ma túy đá thì mua giùm A 1.000.000 đồng (Một triệu đồng). Sau khi được A nhờ, K dùng điện thoại gọi một người nào đó để mua ma túy. Khoảng 20 phút sau có một nam thanh niên (không rõ nhân thân) đi đến nhà A đưa một gói ma túy đá có khóa kéo một đầu và A đưa lại cho nam thanh niên 1.000.000 đồng (Một triệu đồng). Sau đó A, G và K vào trong nhà ngồi nói chuyện, còn nam thanh niên sau khi giao dịch xong đã bỏ đi. Đến trưa cùng ngày A lấy tép ma túy đá vừa mua được gọi G và K cùng sử dụng. A lấy tép ma túy đá vừa mua bỏ vào bộ dụng cụ sử dụng ma túy một ít, số ma túy còn lại được A để trên bàn nhỏ gần bếp nấu ăn của nhà A. Sau khi sử dụng ma túy xong A, G ngồi chơi điện thoại (riêng K bỏ đi khi nào A không biết). Đến khoảng 15 giờ cùng ngày 14/11/2019 Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố PT phối hợp với Công an phường C đến kiểm tra, phát hiện bắt quả tang A tàng trữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ:

- 01 (một) gói nylon không màu, có khóa kéo nhựa một đầu, kích thước khoảng (06 x 05) cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng. A khai nhận đó là ma túy đá, thu giữ trên bàn nhỏ gần bếp nấu ăn trong nhà (được niêm phong trong phong bì và ký hiệu M1 khi giám định).

- 01 (một) gói nylon không màu, có khóa kéo nhựa một đầu, kích thước khoảng (09 x 06) cm, bên trong có chứa thảo mộc khô. A khai nhận đó là Bồ đà, thu giữ trên bàn nhỏ gần bếp nấu ăn trong nhà (được niêm phong trong phong bì và ký hiệu M2 khi giám định).

- 01 (một) gói nylon không màu, được cuộn lại, bên trong có chứa tinh thể màu trắng. A khai nhận đó là ma túy đá, thu giữ trong túi quần phía trước bên phải của A (được niêm phong trong phong bì và ký hiệu M3 khi giám định).

- 01 (một) bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy đá.

* Đối với 01(một) gói nylon có chứa thảo mộc khô (ký hiệu M2 khi giám định), A khai nhận: Vào khoảng 11 giờ ngày 07/11/2019 A đi trên đường thì gặp một người bạn quen biết bên ngoài xã hội (không rõ lai lịch) hỏi biết ở đâu có bán cần sa mua dùm A, A đưa cho đối tượng 50.000 đồng và đối tượng cầm tiền đi, khoảng 10 phút sau quay lại đưa cho A một gói cần sa. Sau đó A đem về và để trên bàn nhỏ gần bếp nấu ăn trong nhà để dành sử dụng. Đến khoảng 15 giờ ngày 14/11/2019 thì bị lực lượng Công an kiểm tra thu giữ.

Đối với 01 (một) gói nylon không màu, được cuộn lại, bên trong có chứa tinh thể màu trắng thu giữ trong túi quần phía trước, bên phải của A (ký hiệu M3 khi giám định), A khai nhận: đây là số ma túy đá mà A đã mua từ lâu (không nhớ rõ thời gian, mua của ai) và sử dụng còn thừa lại một ít và bọc trong túi quần nhưng A không nhớ. Chỉ đến khi bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện thì A mới nhớ còn dư số ma túy đá chưa sử dụng và bị Công an thu giữ.

Tại cơ quan điều tra A đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình và khai nhận mục đích tàng trữ số ma túy trên là để sử dụng. (Bút lục số 49, 50, 51, 52, 53, 55, 56, 57, 58) Tại bản kết luận giám định số 1144 ngày 23/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh BT, kết luận:

- Mẫu M1 gửi giám định có khối lượng 0,6137 gam là Methamphetamine.

- Mẫu M2 gửi giám định có khối lượng 0,8233 gam là Cần sa.

- Mẫu M3 gửi giám định có khối lượng 0,2033 gam là Methamphetamine. Hiện các vật chứng của vụ án, Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT đã ra quyết định chuyển đến Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố PT để bảo quản chờ xử lý.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT vẫn giữ Z Quyết định truy tố theo Cáo trạng số 85/CT/VKSPT-HS ngày 17/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: bị cáo Trần Nhật A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, đề nghị xử phạt bị cáo Trần Nhật A từ 15 đến 21 tháng tù.

Biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46, điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị tuyên:

* Tịch thu tiêu hủy:

- 01(một) gói nylon không màu, có khóa kéo nhựa một đầu, kích thước khoảng (06 x 05) cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng. (Được niêm phong trong phong bì 1144/1 và ký hiệu M1 khi giám định).

- 01 (một) gói nylon không màu, có khóa kéo nhựa một đầu, kích thước khoảng (09 x 06)cm, bên trong có chứa thảo mộc khô (Được niêm phong trong phong bì 1144/2 và ký hiệu M2 khi giám định).

- 01 (một) gói nylon không màu, được cuộn lại, bên trong có chứa tinh thể màu trắng. (Được niêm phong trong phong bì 1144/3 và ký hiệu M3 khi giám định).

Tất cả các phong bì đều có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Z và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh BT.

- 01 (một) bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy đá.

(Tất cả tang vật chứng đều như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 89, ngày 22/6/2020 giữa Công an thành phố PT và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố PT).

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố PT, Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố:

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng và đầy đủ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về căn cứ buộc tội bị cáo: tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu, bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố là đúng, không oan. Lời khai nhận này của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 10 giờ ngày 14/11/2019 Trần Nhật A đang ở nhà tại khu phố B, phường C, thành phố PT, có Ngô Văn G đến nhà chơi, khoảng 30 phút sau thì có thêm K cũng đến chơi. Do có nhu cầu sử dụng ma túy, nên A nhờ K biết chỗ nào bán ma túy đá thì mua giùm A 1.000.000 đồng. Sau khi được A nhờ, K gọi điện thoại cho một người nào đó để mua ma túy. Khoảng 20 phút sau có một nam thanh niên (không rõ nhân thân) đi đến nhà A đưa một gói ma túy đá và A đưa lại cho nam thanh niên 1.000.000 đồng. Sau đó A, G và K vào trong nhà ngồi nói chuyện, còn nam thanh niên sau khi giao dịch xong đã bỏ đi. Đến trưa cùng ngày A lấy tép ma túy đá vừa mua được gọi G và K cùng sử dụng. A lấy tép ma túy đá vừa mua bỏ vào bộ dụng cụ sử dụng ma túy một ít, số ma túy còn lại được A để trên bàn nhỏ gần bếp nấu ăn của nhà A. Sau khi sử dụng ma túy xong A, G ngồi chơi điện thoại (K bỏ đi khi nào A không biết). Đến khoảng 15 giờ cùng ngày 14/11/2019 thì Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố PT phối hợp với Công an phường C kiểm tra, phát hiện bắt quả tang A tàng trữ trái phép chất ma túy thu giữ 0.817 gam Methamphetamine và 0.8233 gam Cần sa.

Vì vậy Cáo trạng số 85/CT/VKSPT-HS ngày 17/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tp. PT truy tố bị cáo Trần Nhật A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[3]. Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo Trần Nhật A là công dân có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được Methamphetamine và Cần sa là các loại chất gây nghiện nằm trong danh mục Nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm các hoạt động sản xuất, tàng trữ, mua bán, sử dụng trái phép, vì hậu quả nguy hại của nó đối với sức khỏe con người trong cộng đồng và trật tự trị an xã hội. Tuy nhận thức được điều này nhưng bị cáo là con nghiện, khi đến cơn bị cáo có nhu cầu sử dụng để thỏa mãn cơn nghiện nên bị cáo bất chấp sự trừng trị của pháp luật, bất chấp hậu quả mà ma túy mang lại vẫn cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép. Hành vi của bị cáo Trần Nhật A là cố ý, gây nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh, trật tự trị an tại địa phương. Do đó cần thiết phải xử lý nghiêm khắc đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

[4]. Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng bị cáo có nhân thân xấu: ngày 11/01/2010, bị Tòa án nhân dân thành phố PT xử phạt 24 tháng tù về tội "Giao cấu với trẻ em” bị cáo đã chấp hành xong hình phạt, nộp đủ án phí và đã được xóa án tích.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: khi quyết định hình phạt sẽ xem xét cho bị cáo, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở cân nhắc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo xét thấy: Hành vi của bị cáo gây nguy hại cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự tại địa phương nên cần xử lý bằng một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của của bị cáo, mức hình phạt này không chỉ nhằm trừng trị bị cáo mà còn giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới. Ngoài ra mức hình phạt đối với bị cáo còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm chung.

Đối với đối tượng Ngô Văn G, quá trình điều tra xác định G không liên quan đến hoạt động phạm tội của Trần Nhật A và không tham gia cất giữ chất ma túy cùng A nên không xử lý hình sự là có căn cứ. Về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của G, Cơ quan điều tra đã chuyển hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền xử lý.

Đối với đối tượng là người thanh niên tên K và các đối tượng đã bán ma túy cho A, do không xác định được nhân thân nên không có căn cứ để xử lý là phù hợp với quy định của pháp luật.

[5]. Về ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT:

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt là tương xứng với mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng của vụ án:

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) gói nylon không màu, có khóa kéo nhựa một đầu, kích thước khoảng (06 x 05) cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng. (Được niêm phong trong phong bì 1144/1 và ký hiệu M1 khi giám định).

- 01 (một) gói nylon không màu, có khóa kéo nhựa một đầu, kích thước khoảng (09 x 06) cm, bên trong có chứa thảo mộc khô (Được niêm phong trong phong bì 1144/2 và ký hiệu M2 khi giám định).

- 01 (một) gói nylon không màu, được cuộn lại, bên trong có chứa tinh thể màu trắng. (Được niêm phong trong phong bì 1144/3 và ký hiệu M3 khi giám định).

Tất cả các phong bì đều có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Z và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh BT.

- 01 (một) bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy đá.

(Tất cả tang vật chứng đều như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 89, ngày 22/6/2020 giữa Công an thành phố PT và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố PT).

Về án phí: bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố: bị cáo Trần Nhật A phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: bị cáo Trần Nhật A 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

[2] Biện pháp tư pháp: Căn cứ các điểm a khoản 1 Điều 46, điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) gói nylon không màu, có khóa kéo nhựa một đầu, kích thước khoảng (06 x 05) cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng. (Được niêm phong trong phong bì 1144/1 và ký hiệu M1 khi giám định).

- 01 (một) gói nylon không màu, có khóa kéo nhựa một đầu, kích thước khoảng (09 x 06) cm, bên trong có chứa thảo mộc khô (Được niêm phong trong phong bì 1144/2 và ký hiệu M2 khi giám định).

- 01 (một) gói nylon không màu, được cuộn lại, bên trong có chứa tinh thể màu trắng. (Được niêm phong trong phong bì 1144/3 và ký hiệu M3 khi giám định).

Tất cả đều có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Z và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh BT.

- 01 (một) bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy đá.

(Tất cả tang vật chứng đều như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 89, ngày 22/6/2020 giữa Công an thành phố PT và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố PT).

[3] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Trần Nhật A phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (20/7/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 78/2020/HSST ngày 20/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:78/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về