TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 78/2020/HS-ST NGÀY 14/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 85/2020/TLST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2020/QĐXXST- HS ngày 01 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:
Trần Văn K, sinh năm 1986 tại Hải Phòng. Nơi ĐKHKTT và ở tại: Thôn 3, xã Th, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn B và bà Nguyễn Thị Đ; có vợ Đặng Thị D; tiền sự: Không; tiền án: Tại bản án hình sự phúc thẩm số 1135/2009/HSPT ngày 06/7/2009 Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “ Cố ý gây thương tích”(chưa được xóa án tích vì chưa nộp án phí); bị tạm giữ ngày 15/5/2020 chuyển tạm giam ngày 21/5/2020; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 06 giờ ngày 15/5/2020 Trần Văn K đã một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 14B2-006.02 sang khu vực đường tàu nội thành Hải Phòng để mua heroin về sử dụng cho bản thân. Tại đây K gặp và mua của một người phụ nữ không quen biết 01 gói ma túy loại heroin với giá 400.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, K cất giấu vào túi quần phía trước bên trái đang mặc và điều khiển xe mô tô về nhà. Khi về đến địa phận thôn Cây Đa, xã An Lư, huyện T thì bị Tổ công tác Công an huyện T kết hợp với Đội 3 – Đoàn đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 1 – Bộ tư lệnh Cảnh sát biển và công an xã An Lư phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng. Tại bản kết luận giám định số 266 ngày 18/5/2020 của Phòng kĩ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng trong 01 gói giấy thu giữ của K có khối lượng 0,58 gam là loại heroin.
Bản Cáo trạng số 90/CT-VKS ngày 31/8/2020, Viện Kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố bị cáo Trần Văn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Trần Văn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 24 tháng đến 30 tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày tạm giữ. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy. Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện T và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện là đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Những chứng cứ xác định bị cáo có tội: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, báo cáo bắt giữ của lực lượng công an, kết luận giám định, vật chứng thu giữ, tài liệu khác có trong hồ sơ thể hiện: Hồi 07 giờ 30’ ngày 15/5/2019 tại khu vực đường liên thôn thuộc địa phận thôn Cây Đa, xã An Lư, Trần Văn K đã có hành vi cất giữ trái phép 0,58 gam Heroin với mục đích để sử dụng cho bản thân nên đã đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Văn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an xã hội nên cần xử lý nghiêm.
[3] Xem xét đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, tính chất mức độ hành vi phạm tội và quyết định hình phạt:
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có 01 tiền án chưa xóa án nên phạm tội lần này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn nên xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[4] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249, bị cáo có thể bị áp dụng hình phát bổ sung là phạt tiền nhưng bị cáo không có công việc thu nhập ổn định và tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng: Tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 26/8/2020 tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện T thể hiện vật chứng vụ án gồm: 01 phong bì niêm phong số 266/2020/PC09 chứa chất mà túy và bao bì còn lại sau giám định. Đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.
[6] Đối với xe mô tô biển kiểm soát 14B2-006.02 tài liệu điều tra xác định xe không có giấy đăng ký, giám định số khung số máy xe không trùng khớp với số khung số maý của biển kiểm soát đeo trên xe. Hiện không xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T tách ra làm rõ xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[7] Trong vụ án này còn có đối tượng bán ma túy cho Trần Văn K, quá trình điều tra không xác định được căn cước, lai lịch, không có cơ sở để điều tra nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h, khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Trần Văn K 24 (Hai mươi tư) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 15/5/2020.
- Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 266/2020/PC09 chứa chất mà túy và bao bì còn lại sau giám định theo Biên bản giao, nhận tài sản vật chứng ngày 26/8/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, thành phố Hải Phòng.
- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
- Quyền kháng cáo bản án: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 78/2020/HS-ST ngày 14/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 78/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tiên Lãng - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về