Bản án 78/2020/HS-ST ngày 04/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 78/2020/HS-ST NGÀY 04/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 9 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 83/2020/TLST- HS ngày 19 tháng 8 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2020/QĐXXST- HS ngày 21/8/2020, đối với bị cáo:

Nguyễn Minh C, sinh ngày 19/5/1983 tại tỉnh Tuyên Quang.

Nơi cư trú: Thôn 4, xã L, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Minh Nh (đã chết) và bà Vũ Thị Th; có vợ là Bùi Thị Ph (đã ly hôn) và 03 người con (con lớn nhất sinh năm 2007, con nhỏ nhất sinh năm 2016); tiền án: Ngày 30/5/2019 Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang, xử phạt 06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm, về tội Đánh bạc; tiền sự: Ngày 13/01/2020 Công an phường An Tường, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính (phạt tiền 2.250.000đ) về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và Tàng trữ trái phép chất ma túy (tàng trữ 0,038 g Heroine); nhân thân: Ngày 17/5/2011 Công an thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính (phạt 500.000 đồng) về hành vi Đánh nhau.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 12/6/2020 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 17 giờ ngày 07/6/2020, bị cáo Nguyễn Minh C điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 22B1 – 539.73 (xe bị cáo mượn của Bùi Thị Ph, vợ cũ của bị cáo) đến khu vực Bến xe khách thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, mục đích tìm mua Heroine để sử dụng. Tại khu vực Bến xe thành phố T, bị cáo mua được 01 gói Heroine (gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng) của một người đàn ông, không biết tên, địa chỉ, với số tiền 150.000 đồng, sau đó bị cáo ngậm gói Heroine mua được vào trong mồm và điều khiển xe mô tô đi tìm chỗ vắng người để sử dụng. Khoảng 18 giờ cùng ngày khi bị cáo đi đến khu vực tổ 5, phường TH, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang thì bị Tổ công tác Công an phường TH, thành phố T phát hiện, yêu cầu kiểm tra, do hoảng sợ, bị cáo đã nuốt gói Heroine đang ngậm trong mồm vào bụng. Tổ công tác đã lập biên bản sự việc, đồng thời đưa bị cáo đến Bệnh viện Công an tỉnh Tuyên Quang tiến hành nội soi gắp được gói Heroine mà bị cáo đã nuốt vào bụng, thu giữ theo quy định. Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với bị cáo, kết quả (+) dương tính (bị cáo khai nhận đã sử dụng ma túy vào ngày 05/6/2020).

Ti Kết luận giám định số 476/GĐKTHS ngày 09/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu vật (Số chất bột vón cục màu trắng ngà thu giữ của Nguyễn Minh C) gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine; khối lượng 0,013g (không phẩy không một ba gam).

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 82/CT-VKSTP ngày 18 tháng 8 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Minh C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Minh C từ 01 năm 02 tháng đến 01 năm 05 tháng tù. Ngoài ra Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo; xử lý vật chứng (tịch thu vỏ bao gói Heroine, 02 xi lanh, 02 ống nước cất và trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động); tuyên quyền kháng cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Minh C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục nhận tội, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, không có tình tiết gì mới; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang; bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.

Kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố các Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Minh C tiếp tục khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng: Biên bản sự việc, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 18 giờ ngày 07/6/2020, tại tổ 5, phường T.H, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, bị cáo Nguyễn Minh C, đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,013g (không phẩy không một ba gam) Heroine, mục đích để sử dụng.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự; hành vi của bị cáo thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý. Tuy bị cáo tàng trữ khối lượng ma tuý dưới mức định tội nhưng bị cáo đã có 01 tiền sự về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma tuý chưa hết thời hiệu được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang truy tố bị cáo về tội Tàng trữ tái phép chất ma túy theo điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật và có cơ sở, cần chấp nhận.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trước khi phạm tội, bị cáo có 01 tiền án về tội đánh bạc, chưa được xoá án tích, do vậy bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h, khoản 1, Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm và bài trừ tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố Tuyên Quang. Do vậy, cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo; khối lượng ma tuý mà bị cáo tàng trữ cũng như tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy mức án mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập thường xuyên; không có tài sản gì có giá trị. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo đúng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang.

[6] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy ngày 05/6/2020 của bị cáo, Công an thành phố Tuyên Quang đã xử phạt vi phạm hành chính ( phạt cảnh cáo); đối với các đối tượng theo bị cáo khai nhận là người bán Heroine cho bị cáo vào ngày 05/6/2020 và ngày 07/6/2020 nhưng không xác định được tên tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ điều tra xử lý. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về vật chứng: Đối với 01 phong bì niêm phong (bên trong là vỏ bao gói Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang trả lại sau khi lấy hết 0,013 gam Heroine để làm mẫu giám định); 02 xilanh và 02 ống nước cất 0,2ml chưa sử dụng là tang vật của vụ án, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu huỷ; đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mobiista, cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[8] Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Minh C phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh C 01 (một) năm 05 (năm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam (12/6/2020).

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) 01 phong bì niêm phong trên các mép dán có chữ ký của Nguyễn Minh C, chữ ký của thành phần tham gia niên phong và 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang (bên trong là vỏ bao gói Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang trả lại sau khi lấy hết 0,013 gam Heroine để làm mẫu giám định); 02 xilanh cỡ 25g x 1 và 02 ống nước cất 0,2ml chưa sử dụng.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Minh C 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar, đã qua sử dụng.

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ngày 20/8/2020.

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 78/2020/HS-ST ngày 04/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:78/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về