Bản án 78/2020/HS-PT ngày 04/03/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 78/2020/HS-PT NGÀY 04/03/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 04/3/2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 31/2020/HSPT ngày 09/01/2020 đối với các bị cáo: YB Kđoh, YS Kđoh, YW Niê và YG Kđoh về tội “Cố ý gây thương tích”. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 82/2019/HSST ngày 27/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’Gar, tỉnh Đắk Lắk.

* Các bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: YB Kđoh; Sinh năm: 1997, tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Xã Cư DM, huyện CM, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 06/12; Dân tộc: Êđê; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông YD Kbuôr, sinh năm 1955 và bà HD Kđoh, sinh năm 1958; Bị cáo có vợ là HT Êban, sinh năm 1996, có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; Hiện bị cáo đang được tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: YS Kđoh; sinh năm 1999, tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Xã Cư DM, huyện CM, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 06/12; Dân tộc: Êđê; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông YD1 Niê, sinh năm 1975 và bà HR Kđoh, sinh năm 1978; Tiền án, tiền sự: Không; Hiện bị cáo đang được tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

3. Họ và tên: YW Niê; sinh năm 1998, tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Xã Cư DM, huyện CM, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Dân tộc: Êđê; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông YD2 Kđoh, sinh năm 1963 và bà HB Niê, sinh năm 1970; Tiền án, tiền sự: Không; Hiện bị cáo đang được tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

4. Họ và tên: YG Kđoh, sinh năm 1995, tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Xã Cư DM, huyện CM, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 06/12; Dân tộc: Êđê; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông YT Niê, sinh năm 1969 và bà HN Kđoh, sinh năm 1976; Bị cáo có vợ là HN1 Ađrơng, sinh năm 1998; Và có 01 con sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không; Hiện bị cáo đang được tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 28/4/2019, anh Nguyễn Văn B (tên thường gọi: B1) cùng vợ đi thu hoạch khoai lang tại rẫy thuộc thôn X, xã DM, huyện CM. Lúc này, YB Kđoh cùng vợ là HT Êban vào rẫy của anh B để mót và lấy dây khoai lang. Do chưa thu hoạch xong nên anh B không cho vợ chồng YB vào nhưng vợ chồng YB không nghe. Vì bực tức nên anh B lấy một đoạn cây đánh vào tay của chị HT để đuổi vợ chồng YB về. Sau khi về nhà, do bực tức vì vợ mình bị anh B đánh nên YB điều khiển xe mô tô biển số 47E1-265.71 đến nhà YW Niê mục đích rủ YW đi đánh anh B. Khi đến nhà YW thì YW không có ở nhà mà chỉ có YS Kđoh (sinh năm: 1999) và YG Kđoh. Tại đây, YB kể lại cho YS và YG nghe chuyện vợ mình bị anh B đánh, đồng thời rủ YS và YG đi đánh anh B thì cả hai đồng ý. YS lấy 01 con dao và lên xe mô tô biển số 47L6-9941 do YG điều khiển, còn YB điều khiển xe mô tô 47E1-265.71 cùng đi đến rẫy của anh B. Trên đường đi cả nhóm gặp và rủ YW cùng đi đánh anh B thì YW đồng ý. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, cả nhóm đến rẫy của anh B, phát hiện anh B đang nằm ngủ dưới gốc cây cà phê cạnh đường, YS hỏi YB “Có phải thằng đó không?”, YB trả lời “Phải”, ngay lập tức YS cầm dao trên tay lao về phía anh B chém liên tiếp 04 nhát trúng vào vùng hông bên phải, cánh tay phải và cánh tay trái của anh B. Tiếp đến YW lao vào dùng tay chân đấm, đạp vào người anh B. Lúc này, chị Võ Thị T phát hiện hô lên nên cả nhóm bỏ đi.

Tại bản Kết luận pháp y thương tích số 833/TgT-TTPY ngày 10/7/2019, của Trung tâm pháp y tỉnh Đ kết luận: Anh Nguyễn Văn B bị thương tích, sẹo phần mềm số lượng ít kích thước lớn và sẹo phần mềm số lượng ít kích thước nhỏ (sẹo khuỷu tay trái kích thước 3 cm x 0,5cm, sẹo mặt sau khuỷu - cẳng tay phải, 02 sẹo cổ cẳng tay phải): 10%; tổn thương nhánh thần kinh trụ tay phải: 13%; Đứt gân duỗi cổ tay trụ, gân duỗi ngón II, III, IV, V bàn tay phải: 04%. Tổng tỷ lệ thương tích 25%.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 82/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo YB Kđoh, YS Kđoh, YW Niê, YG Kđoh phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt các bị cáo YB Kđoh 03 năm tù; YS Kđoh 03 năm tù; YW Niê 02 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi chấp hành án.

- Áp dụng điểm a, i khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51; Điều 38; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo YG Kđoh 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi chấp hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 09/12/2019, các bị cáo YB Kđoh, YS Kđoh, YW Niê, YG Kđoh kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.

Tại phiên toà phúc thẩm, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng cũng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm.

Quá trình tranh luận tại phiên toà phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của các bị cáo YB Kđoh, YS Kđoh, YW Niê và YG Kđoh và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét mức hình phạt 03 năm tù đối với các bị cáo YB Kđoh, YS Kđoh; 02 năm 06 tháng tù đối với bị cáo YW Niê và 01 năm 06 tháng tù đối với bị cáo YG Kđoh là thỏa đáng, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của mỗi bị cáo gây ra. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo YB Kđoh, YS Kđoh, YW Niê, YG Kđoh - Giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với các bị cáo.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp nhau và phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 11 giờ ngày 28/4/2019, tại rẫy cà phê thuộc thôn X, xã DM, huyện CM các bị cáo YB Kđoh, YS Kđoh, YW Niê và YG Kđoh đã dùng dao, tay, chân chém và đánh anh Nguyễn Văn B gây thương tích với tỷ lệ 25% sức khỏe. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo YB Kđoh, YS Kđoh, YW Niê và YG Kđoh về tội "C ý gây thương tích" theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2] Xét mức hình phạt 03 năm tù đối với các bị cáo YB Kđoh, YS Kđoh; 02 năm 06 tháng tù đối với bị cáo YW Niê; và 01 năm 06 tháng tù đối với bị cáo YG Kđoh mà Toà án cấp sơ thẩm xử phạt là thoả đáng, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra. Khi quyết định hình phạt cho các bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đúng và đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ, xem xét nhân thân của các bị cáo như: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, các bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại và được người bị hại có đơn xin bãi nại, các bị cáo là dân tộc thiểu số nên hiểu biết có phần hạn chế. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự mà các bị cáo đã được áp dụng. Tại phiên toà phúc thẩm các bị cáo không cung cấp thêm được tình tiết giảm nhẹ nào mới. Vì vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo của các bị cáo YB Kđoh, YS Kđoh, YW Niê và YG Kđoh mà cần giữ nguyên mức hình phạt của bản án sơ thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do không được chấp nhận đơn kháng cáo nên các bị cáo YB Kđoh, YS Kđoh, YW Niê, YG Kđoh phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 21/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án:

Không chấp nhận đơn kháng cáo của các bị cáo YB Kđoh, YS Kđoh, YW Niê và YG Kđoh - Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 82/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk về phần hình phạt.

[2] Điều luật áp dụng và hình phạt:

[2.1] Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo YB Kđoh 03 (ba) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

[2.2] Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo YS Kđoh 03 (ba) năm tù về tội “cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

[2.3] Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo YW Niê 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

[2.4] Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo YG Kđoh 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo YB Kđoh, YS Kđoh, YW Niê và YG Kđoh mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 78/2020/HS-PT ngày 04/03/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:78/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về