Bản án 78/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN TRE - TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 78/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 30 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 288/2020/TLST- HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2020 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 80C/2020/QĐXX-ST ngày 31 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1981 (vắng mặt) Nơi cư trú: ấp K, xã N, thành phố BT, tỉnh BT

2. Bị đơn: Anh Lê Minh T, sinh năm 1978 (vắng mặt) Nơi cư trú: ấp K, xã N, thành phố BT, tỉnh BT

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Thắm trình bày:

Chị và anh T kết hôn vào năm 2026, hôn nhân do cả hai tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã N, thành phố BT, tỉnh BT. Sau kết hôn vợ chồng chung sống rất hạnh phúc. Nhưng từ khi có con thì chồng chị thay đổi tính tình, gia trưởng và đánh đâp chị, hai vợ chồng thường xuyên gây gổ, dẫn đến bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Anh chị ly thân cách nay hơn 02 năm, hiện mỗi người có cuộc sống riêng. Hiện tình cảm của chị đối với anh không còn. Nay chị cương quyết xin được ly hôn.

Về con chung: Có 02 con chung tên Lê Thị Cẩm T, sinh ngày 13/7/2002 và Lê Thị Cẩm V, sinh ngày 20/9/2015. Chị xin được tiếp tục nuôi cháu V, chị không cấp dưỡng nuôi con. Cháu lớn đã trưởng thành.

Tài sản chung: chị khai không có Nợ chung: chị khai không có Ngày 31/8/2020 chị Th có đơn xin xét xử vắng mặt vì chị bận công việc gia đình.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre đã nhiều lần mời anh T đến để tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh T vẫn vắng mặt không lý do.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre phát biểu quan điểm:

Về việc tuân thủ pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng được tiến hành đúng theo trình tự pháp luật quy định, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.

Về nội dung: Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc xin ly hôn. Chị Th được tiếp tục nuôi cháu V, ghi nhận việc chị Th không yêu cầu cấp dưỡng. Tài sản chung và nợ chung chị Th khai không có nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra xem xét tại phiên tòa, kết quả của việc tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận thấy:

[1] Ngày 23/7/2020 chị Nguyễn Thị Th có đơn xin ly hôn với anh Lê Minh T, hai anh chị đang cư trú tại thành phố Bến Tre nên vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre theo qui định tại các Điều 28, 35 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre đã tống đạt thông báo thụ lý, thông báo hòa giải nhưng anh T không có mặt theo thông báo hòa giải nên không thể tiến hành mở phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải được. Ngoài ra, Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre cũng đã tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập, quyết định hoãn phiên tòa cho anh T để tham gia phiên tòa nhưng anh vẫn vắng mặt không lý do. Đồng thời chị Th cũng có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh T và chị Th là phù hợp.

[3] Chị Nguyễn Thị Th và anh anh Lê Minh T kết hôn năm 2002, hôn nhân do cả hai tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã N, thành phố BT, tỉnh BT. Đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến 2007 thì mâu thuẩn phát sinh nguyên nhân là do đến bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không hợp nhau, hai vợ chồng thường xuyên cãi vã, không có tiếng nói chung. Anh chị ly thân cách nay 14 năm. Tình cảm của chị đối với anh hiện không còn. Nay chị cương quyết xin được ly hôn. Anh T không đến Tòa và cũng không đưa ra được biện pháp nào để hàn gắn hạnh phúc gia đình. Xét thấy đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, ly hôn là biện pháp tốt nhất cho cả hai. Do đó nghĩ nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Th.

[4] Về con chung: Có 02 con chung tên Lê Thị Cẩm T1, sinh ngày 13/7/2002 và Lê Thị Cẩm V, sinh ngày 20/9/2015. Chị Th xin được tiếp tục nuôi cháu V, chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con ... do đó nghĩ nên giao cháu V cho chị nuôi. Riêng cháu T đã trưởng thành.

[5] Về tài sản chung: chị Th khai không có nên không đặt vấn đề giải quyết. [6] Về nợ chung: chị Th khai không có nên không xem xét giải quyết.

[7] Đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[7] Về án phí: Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đồng (Ba trăm nghìn) đồng chị phải nộp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào các Điều 51, 53, 56; 57; 81; 82; 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 147, 227, 228, 235 và Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Qui định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị , cụ thể tuyên:

- Về hôn nhân: chị Nguyễn Thị Th được ly hôn với anh Lê Minh T

- Về con chung: Có 02 con chung tên Lê Thị Cẩm T1, sinh ngày 13/7/2002 và Lê Thị Cẩm V, sinh ngày 20/9/2015. Chị Th được tiếp tục nuôi cháu Lê Thị Cẩm V, sinh ngày 20/9/2015. Ghi nhận việc chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con Riêng cháu Lê Thị Cẩm T1 đã trưởng thành.

Không bên nào được ngăn cản quyền đến thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung.

Vì lợi ích của con khi cần thiết một trong các bên có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: chị Th khai không có nên không xem xét giải quyết

- Về nợ chung: chị Th khai không có nên không xem xét giải quyết

- Về án phí: Án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm chị Nguyễn Thị Th phải nộp là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0012000 ngày 27/7/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bến Tre. Chị Th đã nộp đủ án phí.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

303
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 78/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về xin ly hôn

Số hiệu:78/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về