ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP HÒA, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 78/2020/DS-ST NGÀY 26/9/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Vào ngày 26 tháng 9 năm 2020, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Hiệp Hoà, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 139/2010/TLST- DS ngày 29 tháng 6 năm 2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86a/2019/QĐXXST - DS ngày 06 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn K – sinh năm 1977 (Có mặt)
Địa chỉ: thôn Cấm, xã Lương Phong, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang;
Bị đơn: Anh Trần Văn L, sinh năm 1988 (Vắng mặt)
Địa chỉ: thôn Chùa, xã Lương Phong, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang;
Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
Bà Trần Thị D (Vắng mặt)
Địa chỉ: thôn Chùa, xã Lương Phong, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang;
NỘI DUNG VỤ ÁN
Phía nguyên đơn anh Nguyền Văn Kiền trình bày: Anh và anh Trần Văn L có mối quan hệ họ hàng với nhau. Ngày 17/6/2019 do anh L có nhu cầu vay tiền thì anh đã cho anh L vay 30.000.000đ, khi vay hai bên có viết giấy nhận nợ và có hẹn thời gian là 30 ngày sau sẽ trả nợ cho anh và anh L đã ký vào giấy nhận nợ đó. Khi đến hạn trả nợ anh đã nhiều lần đòi anh L nhưng anh L không trả cho anh. Do anh đến nhà anh L đòi tiền nhiều lần thì mẹ đẻ của anh L là bà D đã trả cho anh được hai lần với tổng số tiền là: 3.600.000đ và từ đó anh L cũng không trả cho anh nợ thêm cho anh lần nào nữa. Nay anh làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc anh Trần Văn L phải có nghĩa vụ trả có anh số tiền gốc là 26.400.000đ. Tại đơn khởi kiện và tại các biên bản ghi lời khai anh đề nghị Tòa án buộc anh L phải có trách nhiệm trả tiền lãi cho anh theo lãi suất của ngân hàng nhưng tại phiên tòa anh Kiền xin rút yêu cầu về việc buộc anh L phải trả tiền lãi cho anh mà chỉ yêu cầu HĐXX xem xét buộc anh L phải trả lại cho anh số tiền gốc là 26.400.000đ. Anh xác định đây là tiền riêng của anh cho anh L vay không liên quan đến vợ của anh.
Phía anh Trần Văn L trong các biên bản làm việc với Tòa án đã trình bày: anh và anh Kiền có mối quan hệ họ hàng với nhau, do anh có nhu cầu cần tiền anh đã vay của anh Kiền 30.000.000đ, trong quá trình vay mẹ của anh là bà D đã trả cho anh được 3.600.000đ và nay anh còn nợ lại cho anh Kiền là 26.400.000đ như anh Kiền đang có yêu cầu khởi kiện là đúng. Nay do hoàn cảnh kinh tế khó khăn anh không có khả năng trả cho anh Kiền ngay được anh xin được trả dần cho anh Kiền.
Tại phiên tòa, KSV phát biểu ý kiến và xác định về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, HĐXX kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án đã thực hiện đúng quy định của pháp luật; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng, đối với nguyên đơn đã chấp hành đúng theo quy định của pháp luật, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã thực hiện đúng quy định. Đại diện VKS đề nghị HĐXX áp dụng: Điều 275; 463; 466; 468; 469 BLDS; khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 BLTTDS. Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án Xử: Buộc anh Trần Văn L phải trả cho anh Nguyễn Văn K số tiền gốc là: 26.400.000đ.
Về án phí: Anh Trần Văn L phải chỉ án phí theo quy định của pháp luật.
Anh Nguyễn Văn K không phải chịu án phí DSST, hoàn trả tiền tạm ứng án phí cho anh Kiền.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Anh Nguyễn Văn K có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vụ án Tranh chấp hợp đồng vay tài sản với anh Trần Văn L được quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Anh L và bà D vắng mặt tại phiên tòa nhưng trước đã có đơn xin xét xử vắng mặt, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục xét xử theo thủ tục chung.
[2] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định: Ngày 17/6/2019 anh Nguyễn Văn K cho anh Trần Văn L vay 30.000.000đ, thời hạn vay là 30 ngày, không thỏa thuận lãi suất. Vì vậy, anh Kiền và anh L đã có hợp đồng nhận nợ với nhau, sau khi vay anh L đã không thực hiện đúng cam kết về thời gian trả nợ cho anh Kiền nên anh Kiền đã nhiều lần đến nhà anh L để đòi tiền. Bà Nguyễn Thị D là mẹ của anh L đã trả cho anh Kiền 3.600.000đ. Đến nay anh Kiền và anh L cùng xác nhận anh L còn nợ lại anh Kiền số tiền là 26.400.000đ. Tại phiên tòa anh Kiền xin rút yêu cầu tính lãi và chỉ yêu cầu HĐXX buộc anh L phải trả cho anh số tiền gốc. HĐXX xét thấy, số tiền gốc đều được hai bên thừa nhận và việc anh Kiền rút yêu cầu tính lãi là sự tự nguyện có anh Kiền nên cần chấp nhận. Vì thế, HĐXX xét thấy, cần buộc anh L phải trả anh Kiền số tiền 26.400.000đ là có căn cứ.
Đối với bà Nguyễn Thị D đã trả cho anh Kiền số tiền 3.600.000đ thì bà D không yêu cầu anh L phải có nhiệm trả lại cho bà số tiền này. HĐXX xét thấy đây là sự tự nguyện của bà D nên HĐXX không xem xét, giải quyết trong vụ án này. Sau này, nếu bà D có yêu cầu anh L phải có trách nhiệm trả bà số tiền 3.600.000đ thì bà khởi kiện anh L bằng một vụ án khác.
Về án phí: Anh Trần Văn L phải chịu phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Trả lại cho anh Nguyễn Văn K tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Điều 275; 463; 466; 468; 469 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn K đối với anh Trần Văn L;
Buộc anh Trần Văn L phải có trách nhiệm trả nợ cho anh Nguyễn Văn K số tiền là: 26.400.000đ(Hai mươi sáu triệu bốn trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015
Án phí: Anh Trần Văn L phải chịu 1.320.000đ(Một triệu ba trăm hai mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm; Anh Nguyễn Văn K không phải chịu án phí DSST, hoàn trả anh Kiền 660.000đ(Sáu trăm sáu mươi nghìn đồng) là tiền tạm ứng án phí anh Kiền đã nộp tại biên lai thu số: 0003960 ngày 29/6/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hiệp Hòa.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cướng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Báo cho đương sự có mặt biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.
Bản án 78/2020/DS-ST ngày 26/09/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 78/2020/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hiệp Hòa - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 26/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về