Bản án 78/2018/DS-PT ngày 06/02/2018 về tranh chấp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 78/2018/DS-PT NGÀY 06/02/2018 VỀ TRANH CHẤP HỤI

Ngày 06 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 335/2017/TLPT-DS ngày 05 tháng 12 năm 2017 về “Tranh chấp hụi”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 59/2017/DS-ST ngày 29 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 343/2017/QĐPT-DS, ngày 20 tháng 12 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1968, cư trú tại: Ấp 2, xã B, huyện Đ, tỉnh Bến Tre.

- Bị đơn:

1. Bà Lê Thị Cẩm L, sinh năm 1971;

2. Ông Võ Văn T, sinh năm 1970;

Cùng cư trú tại: Khu phố 3, thị trấn Đ1, huyện Đ, tỉnh Bến Tre.

- Người kháng cáo: Bà Lê Thị Cẩm L là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Nguyễn Thị M trình bày:

Năm 2015, bà có tham gia chơi hụi do bà Lê Thị Cẩm L làm chủ hụi, bà tham gia 04 dây hụi gồm:

Dây thứ nhất: Hụi 5.000.000 đồng, mở vào ngày 10/01/2015 âm lịch, dây hụi này gồm 37 phần, mỗi tháng khui 02 lần vào ngày mùng 10 và ngày 25 âm lịch hằng tháng. Bà tham gia 02 phần và đóng được 25 lần với số tiền là 182.000.000 đồng.

Dây thứ hai: Hụi 2.000.000 đồng, mở vào ngày 17/5/2015 âm lịch, dây hụi này gồm 35 phần, mỗi tháng khui 02 lần vào ngày mùng 02 và ngày 17 âm lịch hằng tháng. Bà tham gia 03 phần và đóng được 19 lần với số tiền là 78.000.000 đồng.

Dây thứ ba: Hụi 5.000.000 đồng, mở vào ngày 30/11/2015 âm lịch, dây hụi này gồm 31 phần, mỗi tháng khui 02 lần vào ngày mùng 15 và ngày 30 âm lịch hàng tháng. Bà tham gia 02 phần và đóng được 04 lần với số tiền là 27.400.000đồng.

 Dây thứ tư: Hụi 2.000.000 đồng, mở vào ngày 05/12/2015 âm lịch, dây hụi này gồm 35 phần, mỗi tháng khui 02 lần vào ngày mùng 05 và ngày 20 âm lịch hằng tháng. Bà tham gia 05 phần và đóng được 02 lần với số tiền là 14.000.000đồng.

Tổng cộng 04 dây hụi bà đóng cho bà L là 301.400.000 đồng. Đến đầu tháng 01 năm 2016 âm lịch thì bà L tự ý đơn phương chấm dứt chơi hụi nhưng không trả cho bà số tiền trên.

Nay bà yêu cầu Tòa án buộc bà L và ông Võ Văn T là chồng bà L có nghĩa vụ liên đới trả cho bà số tiền 301.400.000 đồng và không yêu cầu tính lãi.

Bị đơn là bà Lê Thị Cẩm L trình bày:

Trước đây, bà L có tổ chức chơi hụi do bà L làm chủ hụi. Năm 2014, bà M có tham gia chơi hụi nhưng dây hụi này đã mãn. Năm 2015, bà M không có tham gia chơi hụi, 04 dây hụi bà M trình bày là không có. Bảng kê hụi ngày 17/5/2015 âm lịch là chữ viết của bà L, nhưng trong danh sách này không có tên của bà M. Nay, bà M yêu cầu bà và ông T có nghĩa vụ liên đới trả cho bà M số tiền 301.400.000 đồng bà không đồng ý.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 59/2017/DS-ST ngày 29 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ đã quyết định như sau:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị M đối với vợ chồng bà Lê Thị Cẩm L, ông Võ Văn T.

Buộc vợ chồng bà Lê Thị Cẩm L, ông Võ Văn T có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Nguyễn Thị M 287.400.000 đồng (hai trăm tám mươi bảy triệu bốn trăm nghìn đồng).

Đình chỉ nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà M về việc yêu cầu vợ chồng bà L, ông T có nghĩa vụ liên đới trả cho bà M 14.000.000 đồng (mười bốn triệu đồng) trong dây hụi mở ngày 05/12/2015.

Ngoài ra, bản án còn tuyên án phí, quyền kháng cáo bản án, quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 13/10/2017, bị đơn bà Lê Thị Cẩm L kháng cáo với nội dung: Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án dân sự sơ thẩm số: 59/2017/DS-ST ngày 29 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Hai bên đương sự không thỏa thuận được về việc giải quyết vụ án.

Ý kiến của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn: Bà Lê Thị Cẩm L không làm chủ các dây hụi nguyên đơn cho rằng có tham gia chơi từ năm 2015. Tại bảng kê hụi không có tên của bà M. Phía nguyên đơn khởi kiện nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh là đã tham gia chơi hụi do bà L làm chủ, đã đóng được bao nhiêu tiền cho bà L, bà M tự tính tiền hụi rồi khởi kiện yêu cầu bà L trả tiền là không có căn cứ. Tên N trong giấy kê hụi ngày 17/5/2015 là tên người không có thật do bà L tự ghi vào nhưng thực chất là do bà L tham gia chơi. Người làm chứng trình bày không khách quan vì không chứng kiến việc nguyên đơn có giao tiền hụi cho bị đơn, vì vậy đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị đơn, sửa bản án dân sự sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến cho rằng trong quá trình tố tụng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự; các đương sự đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ, tham gia phiên tòa theo các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự; đồng thời, đề nghị Tòa án không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của các đương sự, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Nguyên đơn cung cấp chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là bảng kê hụi ngày 17/5/2015, dây hụi 2.000.000 đồng, bà L thừa nhận chữ viết tại bảng kê hụi này là của bà nhưng trong danh sách hụi viên không có tên nguyên đơn vì có tên “N” mà không phải tên M. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn cho rằng tên N là do bà tự viết ra cho đủ danh sách hụi viên mà thực sự không có người này tham gia chơi hụi. Xét thấy, lời trình bày của bà L là không có căn cứ vì bà L làm chủ hụi nên không thể ghi danh sách khống về các hụi viên tham gia chơi mà phải ghi đúng, đủ tên các hụi viên tham gia dây hụi. Ngoài ra, bà L còn trình bày rằng bà học đến lớp 6 do đó khi viết chữ có nét không rõ ràng nên có cơ sở để khẳng định tên “N” trong bảng kê hụi ngày 17/5/2015 là bà M, bảng kê hụi này có tên bà M nên phù hợp với lời trình bày của bà M là bà có chơi hụi do bà L làm chủ, mệnh giá dây hụi, số lượng hụi viên tham gia chơi hụi. Mặc dù, nguyên đơn không liệt kê được số tiền đã đóng hụi cụ thể là bao nhiêu, thời gian đóng hụi cho bà L. Tuy nhiên, xác định được số tiền và thời gian bà M tham gia chơi hụi do bà L làm chủ thì bà M đã đóng được là 78.000.000 đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm buộc bà L, ông T trả cho bà M số tiền nêu trên là phù hợp.

[2] Đối với các dây hụi ngày 10/01/2015, ngày 30/11/2015 và ngày 05/12/2015 âm lịch, bà M không cung cấp được danh sách các hụi viên cụ thể như chứng cứ là bảng kê hụi viên ngày 17/5/2015, mặc dù những người làm chứng cho rằng bà M có tham gia chơi các dây hụi như bà M đã trình bày trong đơn khởi kiện, nhưng các người làm chứng đều cho rằng việc tham gia chơi hụi do bà L làm chủ chỉ thỏa thuận bằng miệng và lời trình bày trên không được phía bà L thừa nhận và phía nguyên đơn không cung cấp được chứng cứ nào khác nên việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bà L, ông T liên đới trả số tiền hụi là 209.400.000 đồng là không có căn cứ, bản án sơ thẩm buộc bà L, ông T liên đới trả cho bà M số tiền này là gây thiệt hại đến quyền lợi của bà L, ông T nên kháng cáo phần này của bà L được chấp nhận.

Từ những nhận định trên, chấp nhận một phần kháng cáo của bà Lê Thị Cẩm L, sửa Bản án dân sự sơ thẩm số: 59/2017/DS-ST ngày 29 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bến Tre, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là không phù hợp nên không chấp nhận.

[3] Về án phí:

- Án phí dân sự sơ thẩm: Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội; do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận một phần nên bà Lê Thị Cẩm L và ông Võ Văn T phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm là 3.900.000 đồng.

Bà Nguyễn Thị M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 10.470.000 đồng nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 7.570.000 đồng  theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0003534 ngày 21/3/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Bến Tre. Bà Nguyễn Thị M phải nộp tiếp số tiền 2.900.000 đồng.

- Án phí dân sự phúc thẩm: Theo quy định tại Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội, do sửa bản án dân sự sơ thẩm nên hoàn tiền nộp tạm ứng án phí phúc thẩm cho bà Lê Thị Cẩm L là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Chấp nhận một phần kháng cáo của bà Lê Thị Cẩm L;

Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số: 59/2017/DS-ST ngày 29 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bến Tre.

Áp dụng Điều 298, và 479 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 357, 429 và 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 27 và 37 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị định số 144/2006/NĐ–CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị M về việc tranh chấp hụi đối với bà Lê Thị Cẩm L, ông Võ Văn T.

Buộc bà Lê Thị Cẩm L, ông Võ Văn T có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Nguyễn Thị M số tiền 78.000.000 đồng (bảy mươi tám triệu đồng).

Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị M về việc yêu cầu bà Lê Thị Cẩm L, ông Võ Văn T liên đới trả số tiền 209.400.000 đồng (hai trăm lẻ chín triệu bốn trăm nghìn đồng).

Đình chỉ nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà M về việc yêu cầu vợ chồng bà L, ông T có nghĩa vụ liên đới trả cho bà M 14.000.000 đồng trong dây hụi mở ngày 05/12/2015.

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Về án phí:

- Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lê Thị Cẩm L và ông Võ Văn T phải liên đới chịu là 3.900.000 đồng (ba triệu chín trăm nghìn đồng).

Bà Nguyễn Thị M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 10.470.000 đồng (mười triệu bốn trăm bảy mươi nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 7.570.000 đồng (bảy triệu năm trăm bảy mươi nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí  số 0003534 ngày 21/3/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Bến Tre. Bà Nguyễn Thị M phải nộp tiếp số tiền 2.900.000 đồng (hai triệu chín trăm nghìn đồng).

- Án phí dân sự phúc thẩm: Hoàn tiền nộp tạm ứng án phí phúc thẩm cho bà Lê Thị Cẩm L là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí  số 0005999 ngày 15/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Bến Tre.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

526
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 78/2018/DS-PT ngày 06/02/2018 về tranh chấp hụi

Số hiệu:78/2018/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bến Tre
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về