TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 773/2020/HS-PT NGÀY 28/09/2020 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Trong ngày 28.9.2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 552/2020/TLPT-HS ngày 21 tháng 7 năm 2020 do có kháng cáo của bị hại và người đại diện hợp pháp của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 93/2020/HSST ngày 28/05/2020 của Toà án nhân dân quận TX, TP.Hà Nội.
- Người đại đại diện hợp pháp của bị cáo Q kháng cáo: Bà Phạm Thị KA, sinh năm 1975; Nơi cư trú: P2 nhà 03, ngõ 39, thôn YX, xã TC, Hện TT, Thành phố Hà Nội. Có mặt.
- Bị hại kháng cáo: Chị Lê Thị Thanh M, sinh năm 1996, Nơi cư trú: P103- A2 phường KG, quận TX, Thành phố Hà Nội.
Vắng mặt.
- Bị cáo liên quan đến kháng cáo:
Họ và tên: Nguyễn Anh Q - Sinh ngày 06.8.2002, tại Hà Nội. (Khi phạm tội: 16 tuổi 11 tháng 25 ngày) ĐKHKTT: Tổ 1 A, phường TL, quận HM, Thành phố Hà Nội; Nơi cư trú: Thôn YX, xã TC, Hện TT, Thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;
Con ông Nguyễn Văn L và bà Phạm Thị K; Tiền án: Không; Tiền sự: không; Nhân thân: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 17.8.2019 đến ngày 26.8.2019. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại vụ án khác. Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Q: Bà Lưu Thị Ngọc L - Luật sư Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội, công tác tại Văn phòng luật sư Hà L và công sự.
Có mặt.
- Vụ án còn có các bị cáo khác và người đại diện hợp pháp của các bị cáo, người bào chữa, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo, Toà án cấp phúc thẩm không triệu tập đến phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23 giờ ngày 30.7.2019, Nguyễn Anh Q, Đặng ĐA, Nguyễn Anh H, Vũ DA, Trần Hữu T, Nguyễn Thành Đ tụ tập tại Cửa hàng cây cảnh số 2 ngõ 135 TH, VP, HĐ, Hà Nội của anh Nguyễn Doãn Q để chơi, trước đó anh Q có thuê Q và DA trông coi cây cảnh tại cửa hàng.
Đến khoảng 01 giờ ngày 31.07.2019, H nói: “Xuống đường đi, tức là đi cướp chúng mày có đi không”. Lúc này Q, ĐA và DA đồng ý đi cướp tài sản với H, Đ không đi, T không nói gì. Q hỏi mượn xe mô tô Honda Wave màu xanh đen bạc BKS: 29T1 - 861.26 của T để sử dụng, T đồng ý. Sau đó Q, DA, H và ĐA đi ra phía bên ngoài cửa hàng cây cảnh còn T và Đ vẫn ở phía bên trong cửa hàng. Tại đây, Q có dùng khẩu trang y tế che biển kiểm soát xe của T lại để tránh bị phát hiện và có nói với H, DA, ĐA là: “đi cướp phải có đồ đấy” (cả nhóm hiểu “đồ” ở đây là hung khí bằng tuýp sắt một đầu gắn dao nhọn dạng dao bầu), sau đó Q bảo DA điều khiển xe mô tô của T đi lấy “đồ”. DA đồng ý và đi ra khu vực bãi đất trống tại khu đô thị Nam Cường, xã DN, quận HĐ, TP.Hà Nội lấy 01 thanh tuýp sắt một đầu gắn dao nhọn về cửa hàng. Q nói cứ đi đi khi nào xác định được đối tượng để cướp thì Q sẽ chỉ tay cho H và DA trực tiếp ép xe và dùng hung khí để cướp tài sản.
Đến khoảng 01 giờ 15 phút 31.7.2019, cả nhóm bắt đầu đi cướp tài sản, Q điều khiển xe mô tô của T chở ĐA đi trước, còn H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen bạc, không đeo biển kiểm soát, đây là xe mà DA đã mượn từ trước của Lê Quang H để sử dụng đi lại chở DA cầm theo hung khí. Đến khoảng 02 giờ ngày 31.7.2019, khi cả nhóm đi đến ngã tư Khuất Duy Tiến – Nguyễn Trãi, quận TX, thì Q phát hiện chị Lê Thị Thanh M điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Vespa LX màu đen đi một mình hướng từ đường Khuất Duy Tiến đi Nguyễn Xiển đi Linh Đàm, trên vai có đeo 01 (một) túi xách. Thấy vậy, Q bấm còi để H và DA quay lại rồi Q chỉ tay ra hiệu cho H và DA biết, tất cả đều hiểu là sẽ cướp tài sản của chị M. H điều khiển xe mô tô bám theo khi cách xe chị M khoảng 05 mét thì DA dùng hung khí kéo lê dưới lòng đường làm phát ra tiếng động và tóe lửa để làm cho chị M sợ và đi chậm lại, khi đến đoạn trước số nhà 214 Nguyễn Xiển, phường HĐ, quận TX thì H vượt lên bên trái xe chị M và ép được xe chị M dừng lại. Lúc này, Q chở ĐA dừng lại phía sau để cảnh giới. DA xuống xe tiến lại trước đầu xe máy chị M, tay phải cầm tuýp sắt hàn dao nhọn chống xuống đất, mũi dao hướng lên trời dơ lên trước mặt chị M đe dọa: “Đưa tiền đây, nhanh lên” đồng thời tay trái giật chiếc túi xách của chị M làm chị M đổ xe ngã xuống đường. Sau đó DA nhảy lên xe của H cùng Q, ĐA đi về cửa hàng Cây cảnh ngõ 135 VP. Về đến nơi, DA đưa Q túi xách vừa cướp được, Q cầm chiếc túi xách đi vào cửa hàng cây cảnh cùng với ĐA, DA, H để lục soát túi xách lấy được:
1.700.000 đồng (một triệu bảy trăm nghìn đồng), 01 (một) điện thoại di động Iphone 8 plus màu vàng - hồng, điện thoại có sử dụng ốp màu hồng hình con lợn, bên trong ốp có 01 tờ tiền Hàn Quốc mệnh giá 50.000 Won, 01 điện thoại di động Nokia 1280 màu đen và một số đồ dùng. Số tiền trên Q chia cho DA, H, ĐA mỗi người 350.000 đồng, lúc này T ngồi phía bàn bên cạnh quay sang nói với Q “thế em không được gì à”, Q đưa cho T 300.000 đồng và nói đây là tiền đổ xăng xe, Q cầm 350.000 đồng. Sau đó Q giữ lại chiếc điện thoại di động Iphone 8 plus màu vàng - hồng và tờ tiền ngoại tệ 50.000 Won, chiếc điện thoại di động Nokia 1280 màu đen Q cất giấu vào ngăn bàn tại lán trông cây cảnh và bảo DA mang túi xách vứt đi, DA cầm túi xách mang đi vứt tại khu vực bãi đất trống gần nhà văn hóa tổ 10 phường VP, còn thanh tuýp sắt một đầu gắn dao nhọn DA mang đi cất ở bãi đất trống tại khu đô thị Nam Cường. Đối với chiếc túi xách và thanh tuýp sắt một đầu gắn dao nhọn đã bị mất, không thu hồi được.
Đến 15 giờ ngày 31.7.2019, Q rủ T đem chiếc điện thoại di động Iphone 8 plus màu vàng - hồng đi bán, T đồng ý và biết đây là tài sản do hội Q đi cướp về có được. T chở Q đến cửa hàng điện thoại tại 434 Bạch M, quận Hai Bà Trưng bán cho chủ cửa hàng là anh Trần Văn Th được 3.000.000 đồng. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, do nghi ngờ nguồn gốc của chiếc điện thoại trên do phạm tội mà có nên anh Th đã mang chiếc điện thoại đến Cơ quan CSĐT - CATP Hà Nội để tự nguyện giao nộp phục vụ điều tra.
Sau khi bán được điện thoại, Q và T đến cửa hàng vàng bạc tại số 51 Quang Trung, quận HĐ bán tờ tiền Hàn Quốc mệnh giá 50.000 Won được 980.000 đồng (Chín trăm tám mươi nghìn đồng). Q đưa cho T 50.000 đồng để T đi cắt tóc. Đến tối cùng ngày, Q gọi DA, H, ĐA, T đi ăn lẩu tại quận HĐ, tại đây Q đã kể lại cho mọi người biết Q đã bán điện thoại Iphone 8 plus và tờ tiền Hàn Quốc được tổng số tiền là 3.980.000 đồng. Sau đó Q trả tiền ăn lẩu hết 1.000.000 đồng, số tiền còn lại Q giữ không chia thêm cho ai và đã ăn tiêu hết.
Sau khi sự việc xảy ra, chị M đã đến Công an phường HĐ, quận TX và Công an thành phố Hà Nội trình báo sự việc.
Khoảng 16 giờ ngày 16.8.2019, Công an thành phố Hà Nội phát hiện Trần Hữu T điều khiển xe máy Wave Biển kiểm soát 29T1 – 821.26 trên phố Ngô Thì Nhậm nên đã tiến hành kiểm tra và đưa T về trụ sở làm rõ. Quá trình đấu tranh khai thác, T khai nhận T bộ nội dung sự việc như đã nêu trên. Sau đó cơ quan công an đã triệu tập Nguyễn Anh Q, Đặng ĐA, Nguyễn Anh H và Vũ DA lên trụ sở để làm rõ sự việc.
Về vật chứng: Thu giữ của anh Nguyễn Doanh Q 01 chiếc điện thoại Nokia màu đen đã qua sử dụng có số IMEI 351948053324476; Thu giữ của Trần Hữu T 01 chiếc xe máy Honda Wave màu xanh đen bạc Biển kiểm soát 29T1 – 86126; số máy 0955278, số khung 098862; Thu giữ của anh Trần Văn Th 01 chiếc điện thoại Iphone 8 Plus màu hồng, IMEI: 356714088359803, không có Sim.
Tại bản Kết luận định giá tài sản số 344 ngày 05 tháng 8 năm 2019 của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong Tố tụng hình sự của UBND quận TX – Thành phố Hà Nội kết luận:
- 01 (một) túi xách nhãn hiệu Pedro màu đỏ, kích thước (20x20x10cm) đã qua sử dụng có giá là: 1.800.000 đồng - 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 8plus màu vàng - hồng, số IMEI: 356714088359803 đã qua sử dụng có giá là: 10.000.000 đồng - 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen đã qua sử dụng có giá là: 100.000 đồng.
Tại Bản tỷ giá số 1 của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam, vào ngày 31.7.2019, tờ tiền 50.000 Won quy đổi được 961.000 đồng (tỷ giá mua).
Như vậy tổng trị giá tài sản mà các bị cáo chiếm đoạt của chị Lê Thị Thanh M là: 14.561.000 đồng (mười bốn triệu năm trăm sáu mươi mốt nghìn đồng).
Về dân sự: Quá trình điều tra, gia đình các bị cáo tự nguyện giao nộp số tiền 4.500.000 đồng để khắc phục hậu quả. Cơ quan điều tra đã trao trả số tiền 4.500.000 đồng cùng 02 chiếc điện thoại cho bị hại là chị Lê Thị Thanh M. Chị M đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác.
Tại Cáo trạng 10/CT- VKS ngày 14.01.2020, Viện kiểm sát nhân dân quận TX đã truy tố các bị cáo Nguyễn Anh Q, Vũ DA, Nguyễn Anh H và Đặng ĐA về tội “Cướp tài sản” theo Điểm d Khoản 2 Điều 168 của Bộ luật hình sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 93/2020/HSST ngày 28.5.2020 của TAND quận TX, TP. Hà Nội đã quyết định: Căn cứ vào Điểm d Khoản 2 Điều 168, Điểm b- s Khoản 1 Khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 91và Điều 101của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Anh Q 03 (ba ) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 17.8.2019 đến ngày 26.8.2019.
Ngoài ra bản án còn quyết định về hình phạt đối với các bị cáo khác, biên pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 10.6.2020 bà Phạm Thị KA – người địa diện hợp pháp bị cáo Nguyễn Anh Q có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Ngày 18.6.2020, bị hại là chị Lê Thị Thanh M kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Nguyễn Anh Q.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên toà:
+ Bị cáo Nguyễn Anh Q xác định bản án Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là đúng người, đúng tội. Bị cáo do bị rủ rê, không làm chủ bản thân nên đã phạm tội, bị cáo biết việc làm của mình và các bạn là vi phạm pháp luật, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
+ Bà Phạm Thị KA trình bày: Bị cáo Q lúc nhỏ đã là trẻ bị tăng động, bị cáo không phải điều trị, hiện tại bị cáo nhận thức bình thường, nhưng do lúc nhỏ bị tăng động nên phần nào có ảnh hưởng đến hành vi của bị cáo. Tại phiên toà gia đình xuất trình tài liệu mới thể hiện ông nội và cụ nội của bị cáo là người có công, bản thân mẹ bị cáo tham gia công tác được khen thưởng nhiều, về sức khoẻ thì bị cáo vẫn phải điều trị bệnh viêm tuỵ cấp nên đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
+ Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày: Tại phiên toà gia đình bị cáo xuất trình thêm tài liệu mới mà Toà án cấp sơ thẩm chưa xem xét. Bản thân bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng không nghĩ đến hậu quả, hiện tại bị cáo vẫn phải điều trị tại bệnh xá, người bị hại và đại diện theo pháp luật của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đều đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên đề nghị HĐXX xém xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
[2] Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội sau khi phân tích nội dung, tính chất vụ án, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ. Đề nghị HĐXX căn cứ Điểm b Khoản 1 Điều 355, Điểm c Khoản 1 Điều 357 - Bộ luật tố tụng Hình sự chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người đại diện theo pháp luật của bị cáo và bị hại, sửa bản án sơ thẩm số 93/2020/HSST ngày 28.5.2020 của TAND quận TX. Áp dụng Điểm d Khoản 2 Điều 168, Điểm b-s Khoản 1 Khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 91, Điều 101 – BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Anh Q 03 năm tù về tội Cướp tài sản.
[3] Xét về hình thức đơn kháng cáo của bà Phạm Thị KA và chị Lê Thị Thanh M: Đã tuân thủ đúng theo quy định về chủ thể, thủ tục và thời hạn kháng cáo tại Điều 331, Điều 332, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự nên được chấp nhận.
[4] Xét nội dung kháng cáo:
Rạng sáng ngày 31.7.2019, tại đoạn đường trước cửa nhà số 214 Nguyễn Xiển, phường HĐ, quận TX, Nguyễn Anh Q cùng Vũ DA, Nguyễn Anh H và Đặng ĐA đã sử dụng hung khí nguy hiểm đe doạ chị M để cướp tài sản trị giá 14.561.000 đồng, Toà án cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo tội Cướp tài sản theo Điểm d Khoản 2 Điều 168 – BLHS là có căn cứ và đúng pháp luật. Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ, quá trình chuẩn bị xét xử gia đình bị cáo xuất trình thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 2 Điều 51 – BLHS. Xét thấy hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an, gây nguy hiểm cho người đi đường, mặc dù tại phiên toà bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, nhưng căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, vai trò, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ thì Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 03 năm 03 tháng tù là phù hợp, do vậy HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị hại và người đại diện hợp pháp của bị cáo.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật theo quy định của pháp luật.
[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo người đại diện hợp pháp của bị cáo không được chấp nhận nên bà Anh phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định. Chị M không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ Điểm a Khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bác kháng cáo của của chị Phạm Thị KA và chị Lê Thị Thanh M, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 93/2020/HSST ngày 28.5.2020 của Toà án nhân dân quận TX, TP. Hà Nội.
2. Áp dụng Điểm d Khoản 2 Điều 168, Điểm b-s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 91, Điều 101, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Anh Q 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù về tội Cướp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 17.8.2019 đến ngày 26.8.2019.
Về án phí hình sự phúc thẩm: Bà Phạm Thị KA phải nộp 200.000đ.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay kể từ ngày tuyên án.
Bản án 773/2020/HS-PT ngày 28/09/2020 về tội cướp tài sản
Số hiệu: | 773/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về