TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 773/2020/HS-PT NGÀY 09/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 09 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 243/2020/TLPT- HS, ngày 01 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo Bùi Phạm D và bị cáo Nguyễn Thị Xuân V do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 144/2020/HS-ST ngày 25 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 633/2020/QĐPT- HS ngày 05 tháng 10 năm 2020.
Các bị cáo có kháng cáo:
1. Họ và tên: Bùi Phạm D; giới tính: nam; sinh năm 1985 tại tỉnh Lâm Đồng; nơi đăng ký thường trú: 61/3J, Tổ 11, ấp MH, xã TC, huyện HM, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: 96/3D tổ 25, ấp MH 1, xã TC, huyện HM, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; trình độ học vấn:12/12; nghề nghiệp: làm thuê; con ông Bùi Văn Ph và bà Phạm Thu Th; hoàn cảnh gia đình: vợ tên Trương Thị Th1, có 1 con sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: không; Bắt, tạm giam 22/01/2019. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: Nguyễn Thị Xuân V; giới tính: nữ; sinh năm 1993 tại tỉnh Quảng Ngãi; nơi đăng ký thường trú: thôn PLĐ, xã HT, huyện NH, tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: Phòng số 2, nhà không số, Tổ 7 ấp MH, xã TC, huyện HM, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; trình độ học vấn: 09/12; nghề nghiệp: làm thuê; con ông Nguyễn Ngọc T và bà Nguyễn Thị Xuân N; hoàn cảnh gia đình: chưa có chồng con; Tiền án, tiền sự: không; Bắt tạm giam 22/01/2019. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo Bùi Phạm D: Luật sư Chu Tấn H – Công ty Luật TNHH DL DINNACLE – Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Xuân V: Luật sư Nguyễn Xuân Ph – Công ty Luật TTP – Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội (có mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Xuân V1, sinh năm 1993; nơi đăng ký thường trú: thôn PLĐ, xã HT, huyện NH, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt (có đơn xin vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 13 giờ 30 phút ngày 22/01/2019, tại trước cổng Trường tiểu học MH, xã TC, huyện HM, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Công an xã TC, huyện HM phát hiện bắt quả tang Bùi Phạm D và Nguyễn Thị Xuân V về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”. Lực lượng công an đã thu giữ của các bị cáo một số đồ vật liên quan như sau:
- Thu tại chỗ để chân xe máy biển số 59P2-328.74 do Duy điều khiển có 01 thùng nước suối hiệu Aquafina, bên trong có 02 túi nylon màu vàng, mỗi túi đựng 01 gói nylon chứa tinh thể không màu (kết quả giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 1980,03g, loại MA); 01 túi nylon màu trắng đựng 05 gói nylon được hàn kín chứa 5.000 viên nén màu xanh có in chữ EA7, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 1966,83g, loại MDMA;
- Thu tại chỗ để chân xe máy biển số 82B1-016.73 do Vân điều khiển có 01 túi giấy màu đỏ bên ngoài in chữ “Chúc mừng năm mới” (túi này D vừa đưa cho Vân), bên trong có 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể không màu (kết quả giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 266,23g, loại Ketamine); 02 gói nylon màu vàng, mỗi gói đựng 01 gói nylon chứa tinh thể không màu (kết quả giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 1.993,20g, loại Methamphetamine.
Lúc 19 giờ 30 phút ngày 22/01/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra công an Thành phố Hồ Chí Minh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Bùi Phạm D tại phòng trọ nhà số 96/3D tổ 25, ấp MH 1, xã TC, huyện HM, Thành phố Hồ Chí Minh, thu giữ được một số vật chứng như sau:
- 01 thùng giấy ghi chữ Lavie, bên trong có chứa:
+ 02 gói nylon màu xanh hiệu TIEGUANJIN chứa tinh thể không màu (m1, m2), kết quả giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 1.999,05g, loại Ketamine.
+ 05 gói nylon màu vàng hiệu GUANYINWANG chứa tinh thể không màu (m3 đến m7), kết quả giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 4.969,56g, loại Methamphetamine.
- 01 thùng xốp bên trong có chứa:
+ 01 gói nylon chứa tinh thể không màu (m8), kết quả giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 480,81g, loại Ketamine.
+ 01 gói nylon chứa 145 viên nén hình tròn màu cam (m9), kết quả giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 160,09g, loại Nimetazepam.
+ 10 gói nylon màu vàng chứa chất bột màu xanh (m10), kết quả giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 28,42g, loại MDMA, Ketamine.
+ 02 gói nylon chứa 20 hộp giấy hiệu V8, bên trong mỗi hộp giấy có 01 lọ thủy tinh chứa chất lỏng màu nâu (v11), kết quả giám định có thể tích 400ml, có MDMA, Ketamine; nồng độ (hàm lượng) MDMA trong mẫu là 33,86mg/ml, nồng độ (hàm lượng) Ketamine trong mẫu là 23,47mg/ml. Trong 400ml mẫu chất lỏng này có 13,5440g MDMA và 9,3880g Ketamine.
+ 01 gói nylon màu trắng bạc bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu (m12), kết quả giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 70,5725g, loại Methamphetamine.
+ 05 gói nylon chứa 954 viên nén hình tròn màu nâu nhạt (m13), kết quả giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 389,23g, loại BZP.
- 01 thùng xốp bên trong có chứa:
+ 09 gói nylon chứa 4.611 viên nén hình chữ nhật màu hồng có chữ YSL (m14), kết quả giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 1.747,44g, loại MDMA;
+ 03 gói nylon chứa 3.058 viên nén hình tam giác màu xanh dương một mặt có khắc chữ EA7 (m15), kết quả giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 1.191,59g, loại MDMA;
+ 02 gói nylon chứa 2.081 viên nén hình tam giác màu xanh lá cây, một mặt có khắc chữ EA7 (m16) là ma túy ở thể rắn, khối lượng 786,68g, loại MDMA;
- 10 gói nylon màu xanh ghi chữ REFINED CHINOSE TEA chứa tinh thể không màu (m17 đến m26), kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 9.971,76g, loại Methamphetamine;
- 05 gói nylon màu vàng hiệu GUAN YINWANG, bên trong chứa tinh thể không màu (m27 đến m31), kết quả giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 4.978,11g, loại MDMA;
- 04 gói nylon màu xanh chứa tinh thể màu trắng (m32 đến m35), kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 3.980,72g, loại Ketamine;
- 02 gói nylon màu xanh chứa tinh thể không màu (m36 đến m37), kết quả giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 19,7158g, loại Ketamine.
Lúc 21 giờ ngày 22/01/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Thị Xuân V tại Phòng số 2, nhà không số, Tổ 7, ấp MH, xã TC, huyện HM, thu giữ tại góc phòng cạnh chân cầu thang 01 gói nylon chứa tinh thể không màu được giấu trong bình bông màu cam, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 6,0382g, loại Methamphetamine.
Toàn bộ số ma túy thu giữ trong vụ án đã được giám định, kết quả thể hiện tại Kết luận giám định số 482, 483 và 484/KLGĐ-H ngày 28/01/2019, số 485/KLGĐ-H ngày 29/01/2019, Kết luận giám định bổ sung số 1088/KLGĐ-H ngày 04/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh (BL77, 79, 81, 83-86, 90).
Ngoài số ma túy thu giữ được (như đã nêu ở các phần trên), Cơ quan điều tra còn thu giữ một số đồ vật liên quan như sau:
Thu giữ của Duy:
- 04 ổ khóa và 04 chìa khóa.
- 03 điện thoại di động (01 hiệu Nokia, 02 hiệu Iphone;
- 02 hộp giấy, 01 bình ga, 03 cân điện tử.
- 01 hũ nhựa, 03 bịch nylon nhiều màu, 01 cuốn sổ, 59 bịch nylon không màu;
- 01 xe máy Honda Click mang biển số 59P2-328.74 (số khung:
MLHJF3500G5264777; số máy: JF350E0264777); Thu giữ của V:
- 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu xanh;
- 01 xe máy SYM ATTILA mang biển số 82B1-016.73 Trong quá trình điều tra, Bị cáo D khai như sau:
Cách ngày bị bắt khoảng 2 tháng, D quen với một đối tượng có tên gọi là M (không rõ lai lịch) và bắt đầu tham gia phụ giúp M mua bán trái phép chất ma túy. Theo sự hướng dẫn của M, D thuê phòng trọ tại huyện HM để nhận ma túy và mang đi cất giấu. M đã 3 lần cho một người đàn ông (không rõ lai lịch) đến giao ma túy cho D: lần 1 giao 5kg ma túy đá, 10.000 viên thuốc lắc và 2kg Ketamine; lần thứ hai giao 2kg ma túy đá; lần thứ ba vào sáng ngày 22/01/2019, giao cho D 20kg ma túy đá, 5kg Ketamine và 15.000 viên thuốc lắc. D cất giấu ma túy ở phòng trọ và bán cho người mua với giá bán như sau:
310.000.000đ đến 320.000.000đ/1kg ma túy đá; 150.000đ/viên thuốc lắc, 450.000.000đ đến 500.000.000đ/1kg Ketamine. Khi có người mua thì Minh sẽ điện thoại báo D. Sau đó, người mua sẽ điện thoại cho D để hẹn địa chỉ giao ma túy. D chỉ mang ma túy đi giao cho người mua theo sự chỉ đạo của M, việc thỏa thuận đặt mua ma túy cũng như giá cả mua bán thì người mua trao đổi trực tiếp với M, D không rõ.
D đã giúp M bán ma túy nhiều lần, cụ thể: Bán cho Ú (không rõ lai lịch) 2 lần, mỗi lần 2kg ma túy đá; bán cho B (không rõ lai lịch) 3 lần, mỗi lần bán 4.000 viên thuốc lắc và 2kg Ketamine; bán cho L (không rõ lai lịch) 2 lần, mỗi lần 2kg ma túy đá và 4.000 viên thuốc lắc;
Ngoài việc bán ma túy cho các đối tượng đã nêu, D còn giúp M bán ma túy cho T (tên gọi khác là Ph, không rõ lai lịch) 3 lần:
- Lần thứ nhất và thứ 2: T1 liên hệ với M đặt mua 0,5kg ma túy đá, rồi V đến gặp D nhận ma túy;
- Lần thứ 3: Vào ngày 22/01/2019, M điện thoại cho D, bảo D chuẩn bị 4kg ma túy đá, 5.000 viên thuốc lắc và 0,5kg Ketamine để giao cho Tâm. Theo yêu cầu của T1, D chia sẵn số ma túy này thành 02 phần: Một phần chứa 2kg ma túy đá và 0,5kg Ketamine, bỏ trong 01 túi giấy màu đỏ; một phần chứa 2kg ma túy đá và 5.000 viên thuốc lắc, bỏ trong 01 thùng nước suối hiệu Aquafina. D điều khiển xe máy mang số ma túy đã nêu đến điểm hẹn tại cổng Trường tiểu học MH thuộc xã TC, huyện HM để giao ma túy. Tại đây, D gặp V và giao ma túy cho Vân, khi vừa giao xong thì bị công an bắt quả tang. Minh trả tiền công cho D mỗi tháng 20.000.000đ và cho D tiền thuê nhà.
Bị cáo V khai như sau: Khoảng cuối năm 2018, V có quen biết với người phụ nữ tên T1 (còn có tên gọi khác là Ph). Đầu tháng 01/2019, V bắt đầu giúp T1 mua bán trái phép chất ma túy. T1 là người trực tiếp thỏa thuận việc mua bán ma túy với người mua; nhiệm vụ của V là giúp T1 đi giao nhận ma túy. V1đã 3 lần đi gặp D để nhận ma túy mang về cho T1. Lần thứ nhất và thứ 2, mỗi lần Vân nhận 0,5kg ma túy đá và mang về phòng trọ của V tại huyện HM, T1 tới phòng trọ kiểm tra và phân chia ma túy ra thành các gói 100g, 200g rồi giao cho V cất. Theo yêu cầu của T1, khi có người tới lấy ma túy thì Vân sẽ giao hoặc là V1 lấy ma túy đi giao cho người mua ở Bình Dương, Củ Chi, HM… V đã giao hết toàn bộ số ma túy mua trong lần thứ nhất và thứ hai; T1 trả cho Vân 2.000.000đ/lần và cho V ma túy để sử dụng. Lần thứ ba, vào trưa ngày 22/01/2019, T1 điện thoại cho V bảo V qua gặp D để nhận ma túy. Vân điện thoại cho D, đôi bên hẹn đến trước cổng trường tiểu học MH thuộc xã TC, huyện HM để giao nhận ma túy. Tại địa điểm vừa nêu, D đưa cho V 1 túi giấy màu đỏ bên trong có chứa các gói ma túy, khi V vừa để túi ma túy lên xe gắn máy của V điều khiển thì bị Công an phát hiện bắt quả tang. Đối với gói ma túy thu giữ tại chỗ ở của V, V khai là ma túy của T1 để lại cho cả hai cùng sử dụng và khi T1 cần để bán thì Vân giao cho T1. Ngoài các lần đã nêu, có một lần V giúp T1 đi nhận 1 cục lốc máy xe; khi mang về nhà, T1 mở ra thì thấy bên trong chứa ma túy; số ma túy này, theo yêu cầu của T1, V cũng đã giao hết cho người khác.
Theo lời khai của D, cơ quan điều tra tiến hành xác minh và xác định được Minh có tên thật là Đỗ Hoàng M (sinh năm 1986; cư trú tại 20/1D ấp TN 1, xã TTN, huyện HM, Thành phố Hồ Chí Minh). M đang bị khởi tố tạm giam trong vụ án giết người do Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC02) Công an Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý. Khi lấy lời khai M và khi cho D và M đối chất, M không thừa nhận có quen biết và mua bán ma túy với D. Do đó, không còn tài liệu chứng cứ nào khác nên không có đủ căn cứ để xử lý đối với M.
Đối với các đối tượng Ú, L, B và T1 (Ph1g): D và V khai không rõ nhân thân lai lịch nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, làm rõ, xử lý.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 144/2020/HS-ST ngày 25 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
1. Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; căn cứ khoản 4 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Xử phạt bị cáo Bùi Phạm D Tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; phạt bổ sung 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng); Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
2. Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; căn cứ khoản 4 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Xuân V Tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; phạt bổ sung 10.000.000đ (mười triệu đồng);
Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
Ngoài ra án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm; quyền và nghĩa vụ trong thi hành án và quyền kháng cáo theo luật định.
- Ngày 29 tháng 5 năm 2020 bị cáo Bùi Phạm D kháng cáo Bản án sơ thẩm số 144/2020/HS-ST, ngày 25/5/2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Lý do: Bị cáo D cho rằng Tòa sơ thẩm xét xử là không đúng người, đúng tội vì tội của bị cáo chỉ là giúp sức cho người khác bán ma túy chứ bị cáo không trực tiếp bán như Tòa sơ thẩm đã tuyên, mức án mà Tòa sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là quá nặng.
Vì thế, bị cáo D kháng cáo yêu cầu tòa phúc thẩm: Xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
- Ngày 01 tháng 06 năm 2020 bị cáo Nguyễn Thị Xuân V kháng cáo Bản án sơ thẩm.
Lý do: Mức án Tòa sơ thẩm tuyên tử hình là quá nặng đối với bị cáo; gia đình bị cáo rất khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình phải nuôi mẹ và em gái, do cần tiền và thiếu hiểu biết nên nghe lời bạn bè, trong thời gian bị bắt bị cáo đã nhận thấy được việc làm sai trái của mình nên rất ăn năn, hối hận.
Vì thế, bị cáo V kháng cáo yêu cầu tòa phúc thẩm: Xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
- Bị cáo D và bị cáo V có kháng cáo, trình bày: Giữ nguyên lý do và yêu cầu kháng cáo nêu trên. Các bị cáo thừa nhận toàn bộ số Ma túy Cơ quan điều tra thu giữ ngày 22/01/2019 khi bắt quả tang và khi khám xét nơi ở của các bị cáo theo các Kết luận giám định số 482, 483 và 484/KLGĐ-H ngày 28/01/2019; số 485/KLGĐ-H ngày 29/01/2019; Kết luận giám định bổ sung số 1088/KLGĐ-H ngày 04/6/2019 của Phòng kỹ thuật Hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh (BL số 77, 79, 81, 83, 86, 90) là của các bị cáo. Trong đó:
+ Của bị cáo D gồm: 1.980,03g Methamphetamine (MA) và 1.966,83g MDMA thu giữ khi bắt quả tang bị cáo D lúc 13 giờ 30 phút ngày 22/01/2019, tại cổng Trường tiểu học MH, xã TC, huyện HM và 30.773,7483g Ma túy ở thể rắn các loại gồm MA, Ketamine, Nimetazepam, MDMA, BZP; 13,544g MDMA và 9,388g Ketamine dạng dung dịch thu giữ khi khám xét nơi ở của bị cáo D tại phòng trọ số 96/3D tổ 25, ấp MH 1, xã TC, huyện HM, Thành phố Hồ Chí Minh lúc 19 giờ 30 phút ngày 22/01/2019.
+ Của bị cáo V gồm: 266,23g Kentamine và 1.993,29g MA thu giữ khi bắt quả tang bị cáo V lúc 13 giờ 30 phút ngày 22/01/2019, tại cổng Trường tiểu học MH, xã TC, huyện HM và 6,0382g MA thu giữ khi khám xét nơi ở của bị cáo V tại Phòng số 2, nhà không số, Tổ 7, ấp MH, xã TC, huyện HM, Thành phố Hồ Chí Minh lúc 21 giờ ngày 22/01/2019.
Bị cáo D cho rằng bị cáo chỉ là người giúp sức giao ma túy cho đối tượng tên Đỗ Hoàng M mua bán ma túy nhiều lần chứ bị cáo không trực tiếp bán ma túy; quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải, nên xin Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
Bị cáo V cho rằng bị cáo chỉ là người giúp sức giao ma túy cho đối tượng tên T1 (còn gọi là Ph) mua bán ma túy nhiều lần chứ bị cáo không trực tiếp bán ma túy; quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải; bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn là lao động chính nuôi mẹ và em gái; do thiếu hiểu biết nên nghe lời bạn bè dẫn đến việc phạm tội; bị cáo bổ sung tình tiết mới tại phiên tòa là bị cáo có cha ruột là Nguyễn Ngọc T có thời gian tham gia trong Qu đội làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới Tây Nam hoàn thành tốt nhiệm vụ, vì thế xin Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Tòa sơ thẩm tuyên bố bị cáo Bùi Phạm D và bị cáo Nguyễn Thị Xuân V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và xử các bị cáo theo điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, không oan sai. Mức hình phạt Tòa sơ thẩm phạt bị cáo D, V: Tử hình là tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo. Và khi lượng hình Tòa sơ thẩm đã xem xét cho các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay mặc dù bị cáo V có bổ sung tình tiết giảm nhẹ ở khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự là: Bị cáo có cha ruột tham gia bảo vệ tổ quốc ở biên giới Tây Nam với tình tiết này cũng không đủ căn cứ để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo V; bị cáo D không bổ sung chứng cứ mới. Cho nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo D, V, giữ nguyên án sơ thẩm.
- Luật sư H bào chữa cho bị cáo D, trình bày: Không đồng ý với quan điểm của Viện kiểm sát và quyết định của án sơ thẩm, do hành vi của bị cáo D chỉ là người trung chuyển ma túy (vận chuyển, tàng trữ ma túy) chứ bị cáo D không phải là người trực tiếp mua bán ma túy, quá trình điều tra không chứng minh được bị cáo bán ma túy, bị cáo không nhận tiền bán ma túy nên hành vi của bị cáo chỉ cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Vì thế, đề nghị Hội đồng xét xử sửa án sơ thẩm. Tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Bị cáo D đồng ý với bào chữa của Luật sư, không bào chữa bổ sung.
- Luật sư Ph bào chữa cho bị cáo V, trình bày: Bị cáo V chỉ là người giúp sức cho đối tượng tên Tâm, nên không đủ căn cứ kết luận bị cáo V phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy mà bị cáo V chỉ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có cha ruột tham gia bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
Bị cáo V đồng ý với bào chữa của Luật sư, không bào chữa bổ sung.
Viện kiểm sát đối đáp, giữ nguyên quan điểm nêu trên do: Các bị cáo D, V đã có hành vi mua bán trái phép chất ma túy và bị bắt quả tang, đồng thời trước đó các bị cáo cũng đã có hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhiều lần, số lượng chất ma túy của các bị cáo bị thu giữ thì các bị cáo đều thừa nhận là cất giữ để đi giao cho các đối tượng tên M, T1 khi các đối tượng này bán cho người mua và trên thực tế đối tượng tên Tâm không rõ lai lịch nên không chứng minh được vì thế bị cáo V phải chịu trách nhiệm về số ma túy của bị cáo mua bán; đối tượng tên M Cơ quan điều tra đã cho đối chất với bị cáo D nhưng không có căn cứ chứng minh nên bị cáo D phải chịu trách nhiệm về số ma túy của bị cáo mua bán. Nên bào chữa của Luật sư là không có căn cứ.
Lời nói sau cùng các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong quá trình điều tra, truy tố Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên các quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.
Bị cáo D, V kháng cáo trong hạn luật định nên vụ án được xem xét lại theo trình tự phúc thẩm.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo D, V thừa nhận: Trong khoảng thời gian cuối năm 2018 đến đầu năm 2019, Bùi Phạm D và Nguyễn Thị Xuân V đã có hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Cụ thể:
Vào lúc 13 giờ 30 phút ngày 22/01/2019, tại trước cổng Trường tiểu học MH, xã TC, huyện HM, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Công an xã TC, huyện HM phát hiện bắt quả tang Duy giao ma túy cho Vân. Lực lượng công an đã thu giữ của Duy 1.980,03g Methamphetamine (MA) và 1.966,83g MDMA; thu giữ của Vân 266,23g Ketamine và 1.993,20g MA.
Vào lúc 19 giờ 30 phút ngày 22/01/2019, khi khám xét khẩn cấp chỗ ở của Duy tại phòng trọ nhà số 96/3D tổ 25, ấp MH 1, xã TC, huyện HM, lực lượng công an thu giữ được của Duy số ma túy cất giữ tại đây: 30.773,7483g ma túy ở thể rắn các loại gồm MA, Ketamine, Nimetazepam, MDMA, BZP;
13,544g MDMA và 9,388g Ketamine dạng dung dịch.
Vào lúc 21 giờ ngày 22/01/2019, khi khám xét khẩn cấp chỗ ở của Vân tại Phòng số 2, nhà không số, Tổ 7, ấp MH, xã TC, huyện HM, lực lượng công an thu giữ được của Vân 6,0382g MA.
Với số lượng ma túy nêu trên bị cáo D khai bị cáo chỉ là người giúp sức cho Đỗ Hoàng M mua bán ma túy, Duy đã giúp Minh mua bán ma túy nhiều lần; Vân thì khai rằng Vân giúp sức cho đối tượng tên Tâm (không rõ lai lịch) mua bán ma túy nhiều lần. Tuy nhiên, cơ quan điều tra đã cho đối chất giữa bị cáo D và đối tượng tên Minh nhưng Minh không thừa nhận lời khai của Duy, ngoài lời khai của Duy ra thì không còn chứng cứ nào khác để chứng minh Duy là người giúp sức cho Minh mua bán ma túy; còn đối tượng tên Tâm do Vân khai nhưng Tâm là người không rõ lai lịch nên cũng không có căn cứ chứng minh. Trong khi các bị cáo đã biết được và thừa nhận việc mình cất giấu ma túy và vận chuyển ma túy là nhằm mục đích giúp sức cụ thể là đi giao ma túy cho người mua khi các đối tượng tên Minh, Tâm yêu cầu, nên khi không chứng minh được các đối tượng Minh, Tâm là người giao ma túy cho các bị cáo cất giấu để vận chuyển ma túy đi giao cho người mua khi các đối tượng tên Minh, Tâm đã bán và yêu cầu các bị cáo đi giao, thì các bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi mua bán trái phép chất ma túy với khối lượng ma túy các bị cáo bị bắt quả tang và bị thu giữ nơi ở của các bị cáo. Vì thế, Tòa sơ thẩm tuyên bố các bị cáo D, V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội không oan, sai. Nên bào chữa của các luật sư cho rằng các bị cáo chỉ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không có căn cứ.
[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo D, V là đặc biệt nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình quản lý trật tự, an toàn xã hội, trực tiếp gây ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, đồng thời làm lây lan tệ nạn nghiện ngập ma túy trong xã hội và đây cũng là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác gây hậu quả không lường trước được. Vì vậy, cần phải xử lý thật nghiêm khắc đối với các bị cáo để răn đe giáo dục chung.
[4] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo: [4.1] Đối với bị cáo D:
Khối lượng ma túy mà Duy mua bán là đặc biệt lớn; hành vi phạm tội có mức độ đặc biệt nguy hiểm.
Bị cáo phạm tội 2 lần trở lên. Do vậy, Tòa sơ thẩm áp dụng điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự để tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Tòa sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo D là có căn cứ, đúng pháp luật và mức hình phạt Tòa sơ thẩm tuyên tử hình đối với bị cáo D là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Tại cấp phúc thẩm không có căn cứ giảm nhẹ nào mới nên theo đề nghị của Viện kiểm sát Hội đồng xét xử không chấp nhận lời bào chữa của Luật sư, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo D, giữ nguyên án sơ thẩm.
[4.2] Đối với bị cáo V:
Khối lượng ma túy mà Vân mua bán là nhỏ hơn nhiều lần so với khối lượng ma túy mà Duy mua bán. Tuy nhiên, đối chiếu với quy định của pháp luật thì khối lượng ma túy mà Vân mua bán là rất lớn, gấp hàng chục lần so với khối lượng ma túy là tình tiết bị cáo V bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.
Bị cáo phạm tội 2 lần trở lên. Do vậy, Tòa sơ thẩm áp dụng điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 để tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Tòa sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo V là có căn cứ, đúng pháp luật và mức hình phạt Tòa sơ thẩm tuyên tử hình đối với bị cáo V là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Tại cấp phúc thẩm bị cáo V cho là gia đình bị cáo gặp khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình phải nuôi mẹ già và em gái, do thiếu hiểu biết nên nghe lời bạn bè dẫn đến phạm tội, bị cáo có cha ruột là người có thành tích tham gia bảo vệ biên giới Tây Nam. Các tình tiết bị cáo V xin được xem xét nêu trên là có căn cứ nên được chấp nhận coi đó là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, song cũng không đủ căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, vì thế theo đề nghị của Viện kiểm sát Hội đồng xét xử không chấp nhận lời bào chữa của Luật sư, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo V, giữ nguyên án sơ thẩm.
[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo D, V phải nộp án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
[6] Quyết định khác của bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1/ Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Phạm D và bị cáo Nguyễn Thị Xuân V; Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 144/2020/HS-ST ngày 25 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
2/ Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; căn cứ khoản 4 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Tuyên bố bị cáo Bùi Phạm D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Bùi Phạm D Tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; phạt bổ sung 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng).
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 22/01/2019. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
3/ Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; căn cứ khoản 4 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Xuân V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Xuân V Tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; phạt bổ sung 10.000.000đ (mười triệu đồng);
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 22/01/2019. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
4/ Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Bùi Phạm D và bị cáo Nguyễn Thị Xuân V mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng.
5/ Quyết định khác của bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
6/ Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày tuyên án phúc thẩm, bị cáo Bùi Phạm D và bị cáo Nguyễn Thị Xuân V có quyền làm đơn gửi Chủ tịch nước Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam để xin ân giảm án tử hình.
7/ Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 773/2020/HS-PT ngày 09/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 773/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về