Bản án 769/2017/HNGĐ-ST ngày 01/12/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 769/2017/HNGĐ-ST NGÀY 01/12/2017 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 01 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 858/2017/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2017 về tranh chấp ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 389/2017/QĐXXST- HNGĐ ngày 06 tháng 11 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1980; Địa chỉ: Thôn 3, xã LN, huyện NT, thành phố Hải Phòng; Có mặt.

- Bị đơn: Anh Bùi Quốc Tr (tên gọi khác là Bùi Văn Ch), sinh năm 1973; Địa chỉ: Thôn 3, xã LN, huyện NT, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị M và anh Bùi Quốc Tr kết hôn với nhau vào năm 2009, trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã LN, huyện NT, thành phố Hải Phòng. Sau khi cưới, vợ chồng sinh sống tại thôn 3, xã LN, huyện NT, thành phố Hải Phòng. Cuộc sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến đầu 2011 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, anh Tr hay đánh đập vợ, dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng nhau. Mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng và vợ chồng đã ly thân nhau từ cuối năm 2016 đến nay. Nay, chị M nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị được ly hôn anh Bùi Quốc Tr; Về con chung: Vợ chồng có một con chung tên Bùi Phú Th sinh ngày 16 tháng 7 năm 2010. Hiện nay chị M đang do nuôi con. Khi ly hôn, chị M đề nghị được tiếp tục nuôi con. Về cấp dưỡng nuôi con chị M không đề nghị Tòa án giải quyết; Về tài sản chung: Vợ chồng có một số tài sản chung nhưng để vợ chồng tự phân chia không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến và đề nghị của bị đơn: Về quan hệ hôn nhân: Thừa nhận với trình bày của nguyên đơn về thời gian và điều kiện kết hôn, về mâu thuẫn vợ chồng. Tuy nhiên, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do chị M không chịu khó làm ăn, hay cờ bạc nên vợ chồng thường hay xẩy ra xích mích, cãi mắng, đánh nhau. Vợ chồng đã ly thân nhau từ cuối năm 2016 đến nay. Nay, chị M xin ly hôn, anh Tr đồng ý; Về con chung: Thừa nhận với trình bày của chị M về con chung. Khi ly hôn anh đồng ý để chị M nuôi con. Về cấp dưỡng nuôi con để vợ chồng tự bàn bạc thống nhất với nhau, không đề nghị Tòa án giải quyết; Về tài sản chung: Đồng ý với lời trình bày của chị M và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của Viện kiểm sát: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của pháp luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; đương sự là nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Bị đơn không chấp hành quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình giải quyết cho chị Nguyễn Thị M được ly hôn, giao cho chị M được nuôi con. Chị M phải chịu án phí ly hôn theo quy định.

Các tài liệu, chứng cứ, tình tiết của vụ án: Giấy chứng nhận kết hôn số 90, quyển số 01/2009 của Ủy ban nhân dân xã LN, huyện NT, thành phố Hải Phòng xác định chị Nguyễn Thị M và anh Bùi Văn Ch kết hôn với nhau vào ngày ngày 13 tháng 10 năm 2009; Tài liệu xác minh tại chính quyền địa phương xác định vợ chồng có mâu thuẫn từ năm 2011, nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống vợ chồng ly thân nhau từ cuối năm 2016 đến nay,  mâu thuẫn vợ chồng đã được hòa giải nhưng không thành. Vợ chồng có một con chung tên Bùi Phú Th sinh ngày 16 tháng 7 năm 2010.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, bị đơn vắng mặt. Căn cứ Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị M và anh Bùi Quốc Tr được xác lập vào năm 2009 là hợp pháp. Tài liệu chứng cứ thu thập được thể hiện quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng nhau. Vợ chồng đã ly thân nhau từ cuối năm 2016 đến nay. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng anh Tr không có mặt. Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến phiên tòa xét xử vụ án, nhưng anh Tr đều vắng mặt không có lý do, điều này thể hiện anh Tr không muốn hòa giải. Chứng tỏ, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chấp nhận đề nghị của chị M là phù hợp Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Xác định vợ chồng có một con chung tên tên Bùi Phú Th sinh ngày 16 tháng 7 năm 2010. Hiện nay chị M đang nuôi con, khi ly hôn chị M đề nghị được tiếp tục nuôi con. Bản lấy lời khai của anh Bùi Quốc Tr ngày 03 tháng 11 năm 2017 thể hiện anh đồng ý để cho chị M nuôi con. Do vậy giao con cho chị M trực tiếp nuôi là phù hợp với Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị M đề nghị để vợ chồng tự thỏa thuận giao nhận cho nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Không có yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội chị Nguyễn Thị M phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị M được ly hôn anh Bùi Quốc Tr.

2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị M trực tiếp nuôi con chung tên Bùi Phú Th sinh ngày 16 tháng 7 năm 2010. Việc nuôi con được thực hiện cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

2. Về án phí: Chị Nguyễn Thị M phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0005738 ngày 23 tháng 8 năm 2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị Nguyễn Thị M đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 769/2017/HNGĐ-ST ngày 01/12/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:769/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về