Bản án 767/2020/HS-PT ngày 07/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 767/2020/HS-PT NGÀY 07/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 683/2020/TLPT - HS ngày 06 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Đức T; do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 440/2020/HSST ngày 29/09/2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Đức T; giới tính: Nam, Sinh ngày 9/3/1985 tại tỉnh Bình Phước; Nơi cư trú: Đăng ký HKTT và chỗ ở: 15/4 H, Phường 12, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam, Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: Không, Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: Lái xe; Con ông Nguyễn Hữu Đ (Đã chết) và bà Lê Thị P, sinh năm 1964; Vợ: Nguyễn Thị Hồng T, sinh năm 1983, Con: 04 người (lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2017).

Tiền án; Tiền sự: không Tạm giam từ ngày 21/02/2020 tại Trại tạm giam Chí Hòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Đoàn Trọng Nghĩa là thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 04 giờ 21/02/2020, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Phú Nhuận phát hiện Nguyễn Đức T điều khiển xe ôtô hiệu Chervelet Spark mang biển số 51F – 745.15 đỗ bên cạnh nhà số 52 Cù Lao, Phường 2, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh và đi bộ vào hẻm 52 Cù Lao, trên tay trái của T xách một túi xách da màu nâu. Khi đến trước nhà số 52/5 Cù Lao, Phường 2, quận Phú Nhuận thì T bị lực lượng Công an quận Phú Nhuận chặn lại kiểm tra phát hiện bên trong túi da màu nâu của T có 01 gói giấy màu vàng bên trong có 06 gói túi nylon hàn kín chứa tinh thể không màu (Kết quả giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 394,68 gram loại Methamphetamine); 01 khẩu súng ngắn màu đen có dòng chữ “WEI-E-TECHNOLOGY UNIVERSAL”; 01 Hộp tiếp đạn có 22 viên đạn bi màu đồng; 01 hộp tròn kim loại màu đen bên trong có 200 viên đạn bi màu đồng; 01 giấy Chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Đức Hùng (BL: 55 đến 60).

Kiểm tra bên trong túi quần Kaki màu kem phía trước bên phải T đang mặc có số tiền 1.622.000đ (Một triệu sáu trăm hai mươi hai ngàn đồng); Trong túi quần phía trước bên trái có 01 Điện thoại di động, hiệu Iphone có số sim 0704859320 và 01 Điện thoại di động, hiệu Samsung có số sim 0796063734 (BL: 70).

Kiểm tra trong xe ô tô hiệu Chervelet Spark mang biển số 51F – 745.15 của T, phát hiện: tại bên hông phải ghế phụ phía trước có 01 túi vải màu xám thu giữ 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể không màu (Kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 24,6730 gram loại Methamphetamine); tại sàn xe phía trước ghế phụ thu giữ 01 túi vải màu đen bên trong có 01 giấy Chứng minh nhân dân, 01 sổ hộ chiếu đều mang tên Nguyễn Đức T; 01 Điện thoại di động, hiệu Nokia không có sim; tại hộp để đồ phía trước ghế phụ có 01 túi vải màu đỏ có dòng chữ RedDoorz bên trong có 120 tờ tiền Việt Nam đồng có mệnh giá 500.000đ (BL: 75). Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an quận Phú Nhuận đã đưa Tài cùng vật chứng về trụ sở Công an Phường 2, quận Phú Nhuận lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Đức T tại số 15/4 H, Phường 12, Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh không phát hiện thu giữ gì liên quan đến hành vi phạm tội.

Toàn bộ số ma túy thu giữ trong vụ án đã được giám định, kết quả thể hiện tại Kết luận giám định số 358/KLGĐ-H ngày 28/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hồ Chí Minh (BL: 112).

Quá trình điều tra Nguyễn Đức T khai nhận: Khoảng 03 tháng trước, do T là tài xế xe ôtô công nghệ nên T có quen biết một người tên C (không rõ lai lịch) là khách đi xe của T, C giới thiệu cho T biết có mua bán ma túy nếu cần thì T liên hệ mua. Do bản thân nghiện ma túy nên T đã chủ động liên hệ với C để mua ma túy sử dụng và bán lại kiếm tiền tiêu xài. T đã 04 lần mua ma túy của Công trên đại lộ Bình Dương, tỉnh Bình Dương, cụ thể như sau:

- Lần 01: Vào khoảng đầu tháng 11/2019, T điện thoại cho C mua một hộp 5 ma tuý đá (khoảng 5g), với giá tiền là 1.600.000đ (Một triệu sáu trăm ngàn đồng) đem về sử dụng.

- Lần 02: Vào khoảng giữa tháng 11/2019, T điện thoại cho C mua một hộp 10 ma tuý đá (khoảng 10g), với giá tiền là 3.000.000đ (Ba triệu đồng) đem về sử dụng.

- Lần 03: Vào ngày 22/01/2020 T điện thoại cho C mua 0,5 kg ma tuý đá với giá tiền là 135.000.000đ (Một trăm ba mươi lăm triệu đồng). C đã chia sẵn thành 05 túi nylon hàn kín (tương đương mỗi túi là 100g). T đem về phân chia thành các hộp 5g để bán cho các người nghiện sử dụng với giá tiền là 1.700.000đ (Một triệu bảy trăm ngàn đồng/hộp). Số ma túy thu được trên xe ô tô biển số 51G- 745.15 tại bên phải ghế phụ phía trước là số mua túy của T bán chưa hết trong lần này.

- Lần 04: Vào ngày 18/02/2020, T điện thoại cho C mua 0,5 kg ma tuý đá với giá tiền là 135.000.000đ (Một trăm ba mươi lăm triệu đồng). C bán cho T 06 túi nylon hàn kín (trong đó có 04 túi có khối lượng bằng nhau và 02 túi có khối lượng ít hơn). T mua mua túy trên về để bán lại cho một nguời tên Q (Không rõ lai lịch) là người đã mua ma túy của T 02 lần trước đó (01 lần một hộp 5g và 01 lần một hộp 10g). Khoảng 03 giờ ngày 21/02/2020, Q điện thoại cho T bằng số 0938059979 vào số điện thoại của Tài 0796063734 khi T đang lái xe ô tô hiệu Chervelet Spark mang biển số 51F – 745.15 tại vòng xoay Phú Lâm, Quận 11, thành phố Hồ Chí Minh để hỏi mua 0,5 kg ma túy đá. T báo giá là 145.000.000đ (Một trăm bốn mươi lăm triệu đồng), Q đồng ý và hẹn nhau tại hẻm 52 C, Phường 2, quận P để thực hiện việc mua bán. Vì trên xe đang có sẵn 0,5 kg ma túy đá mà T đã mua của C vào ngày 18/02/2020 nên T điều khiển xe ôtô đến hẻm 52 C, Phường 2, quận P để bán cho Q thì bị Cơ quan Công an quận P phát hiện, bắt quả tang cùng toàn bộ vật chứng như đã nêu trên (BL: 178 đến 181, 217 đến 221).

Đối với đối tượng C là người bán ma túy cho T và Q là người mua ma túy của T. Do T khai không rõ địa chỉ, lai lịch của các đối tượng này nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh, điều tra làm rõ để xử lý.

Đối với 01 (một) túi vải màu đỏ có dòng chữ RedDoorz và 60.000.000 đồng. Quá trình điều tra xác định số tiền này là của bà Nguyễn Thị M (mẹ vợ T) cho vợ chồng T mượn để trả tiền mua xe ôtô trả góp cho Ngân hàng, không liên quan đến hành vi phạm tội của Tài. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Hồ Chí Minh đã làm thủ tục trả cho bà Nguyễn Thị M.

Đối với 01 (một) giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Đức H. Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hồ Chí Minh, xác định Giấy chứng minh này được làm giả bằng phương pháp in phun màu. Tài khai nhặt được vào khoảng tháng 5/2019 và đem về bóc ra dán ảnh của Tài vào, mục đích để đưa ra khi đi khách sạn nhưng chưa sử dụng lần nào. Vì vậy, căn cứ vào tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ chưa đủ cơ sở để xử lý đối với Tài về hành vi “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức”.

Đối với 01 (một) khẩu súng ngắn màu đen có dòng chữ “WEI-E- TECHNOLOGY UNIVERSAL” và 01 hộp tiếp đạn có 22 viên đạn bi màu đồng; 01 hộp tròn kim loại màu đen bên trong có 200 viên đạn bi màu đồng. Kết quả giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hồ Chí Minh: Khẩu súng này thuộc nhóm đồ chơi nguy hiểm bị cấm. Cơ quan điều tra đã chuyển tài liệu cùng vật chứng cho Công an quận P xử lý theo thẩm quyền.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 440/2020/HSST ngày 29 tháng 9 năm 2020, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức T tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính kể từ ngày 21/02/2020.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 30/9/2020 bị cáo Nguyễn Đức T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt Tại phiên tòa phúc thẩm, Bị cáo Nguyễn Đức T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, bị cáo xin lấy công chuộc tội để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo thống nhất về tội danh của tòa án sơ thẩm đã tuyên. Tuy nhiên, mức án tù chung thân đối với bị cáo có phần nghiêm khắc so với hành vi phạm tội của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm: Bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017 với mức án chung thân là tương xứng mức độ hành vi của bị cáo, bị cáo kháng cáo không có tình tiết gì mới nên đề nghị không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ lời khai bị cáo tại cơ quan điều tra, tại các phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, nhân chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thấy rằng:

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức T nộp trong thời hạn quy định của pháp luật nên hợp lệ, được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

[2.1] Khoảng 04 giờ ngày 21/02/2020 Nguyễn Đức T điều khiển xe ôtô hiệu Chevrolet Sprak mang biển số 51F-745.15 đỗ cạnh nhà 52 C, phường 2 quận P. Với mục đích đi bộ vào hẻm để bán ma túy nhưng khi đang đi vào hẻm thì bị công an bắt quả tang trong túi xách trên người của T có 06 gói ma túy có trọng lượng là 394,68 gram. Đồng thời thu giữ trên xe ôtô của T có 24,6730gram Methamphentamine. Tổng số ma túy thu giữ của Tài qua giám định có trọng lượng là 419,3530 gram Methamphetamine. T khai nhận đã mua bán ma túy 4 lần, lần thứ 4 định đi giao ma túy cho đối tượng tên Q trong hẻm 52 C, phường 2 quận P thì bị bắt quả tang.

Hành vi của Nguyễn Đức T đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 4 điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2.2] Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm hại đến việc quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy mà còn xâm hại trực tiếp đến trật tự trị an toàn xã hội, tiếp tay cho tệ nạn ma túy gia tăng.

Hội đồng xét xử sơ thẩm đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo thành khẩn khai báo, cũng phần nào thể hiện sự ăn năn hối cải, chưa có tiền án tiền sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xét thấy, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo kháng cáo nhưng không có tình tiết giảm nhẹ gì mới.

Do vậy, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên quyết định bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.

[3] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức T. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 440/2020/HSST ngày 29 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức T tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính kể từ ngày 21/02/2020.

Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Đức T 10.000.000 (Mười triệu đồng) sung vào ngân sách Nhà nước.

2. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

3. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Đức T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

129
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 767/2020/HS-PT ngày 07/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:767/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về