TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 766/2017/HNGĐ-PT NGÀY 24/08/2016 VỀ TRANH CHẤP TÀI SẢN CHUNG SAU KHI LY HÔN
Trong các ngày 20/7, 21/8 và 24/8/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 49/2017/TLPT-HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2017 về Tranh chấp tài sản chung sau khi ly hôn.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 472/2017/HNGĐ-ST ngày 20 tháng 4 năm 2017 của Tòa án nhân dân quận B Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 434/2017/QĐ-PT ngày 21 tháng 6 năm 2017, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trần Thị Thu N , sinh năm 1984
Địa chỉ: 32 đường số A, khu dân cư V, phường X, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ liên lạc: X – 716 Q, phường X2, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện ủy quyền: Ông Trần Thế K, sinh năm 1966
Địa chỉ: 1246/17 đường C, phường S, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
(Theo giấy ủy quyền số: 000839; quyển số: 01/TP/CC - SCC/HĐGD ngày 25 tháng 01 năm 2016 của Văn phòng Công chứng Việt An)
- Bị đơn: Ông Trần Văn H , sinh năm 1975
Địa chỉ: 32 đường số A, khu dân cư V, phường X, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ liên lạc: 01A P, Phường D, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn A, sinh năm 1951
Địa chỉ: 65/25 H, Phường Q, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Trần Thị Thu H .
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và trình bày của đại diện nguyên đơn bà Trần Thị Thu N :
Bà và ông Trần Văn H đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số: 512/2015/QĐST - HNGĐ ngày 29 tháng 5 năm 2015 của Tòa án nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Về tài sản chung, nợ chung và các nghĩa vụ dân sự khác: Bà Trần Thị Thu N và ông Trần Văn H tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nhưng bà N cho rằng bà và ông H không tự thỏa thuận được, nên bà yêu cầu Tòa án chia tài sản sau ly hôn là căn nhà số 32 đường số A, khu dân cư V, phường X, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ông Trần Thế K là người đại diện của bà Trần Thị Thu N giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, phạm vi khởi kiện, cụ thể: Yêu cầu Tòa án buộc ông Trần Văn H chia cho bà Trần Thị Thu N số tiền là 800.000.000 (tám trăm triệu) đồng.
Tại phiên tòa sơ thẩm: Bị đơn ông Trần Văn H và người làm chứng ông Nguyễn Văn A đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên tòa án cấp sơ thẩm xử vắng mặt các đương sự trên.
Tại bản án số 472/2017/HNGĐ-ST ngày 20 tháng 4 năm 2017 của Tòa án nhân dân quận B Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Thu N về việc yêu cầu ông Trần Văn H chia cho bà số tiền là 800.000.000 (tám trăm triệu) đồng.
2. Về án phí: Trả lại cho bà Trần Thị Thu N 18.000.000 (mười tám triệu) đồng là tiền tạm ứng án phí mà bà N đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0005400 ngày 05 tháng 10 năm 2015 của Chi cục Thi hành án dân sự quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án của đương sự theo luật định.
Ngày 27/4/2017 ông Trần Thế K đại diện ủy quyền cho bà Trần Thị Thu N kháng cáo toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm. Ông yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xem xét lại trình tự thủ tục tố tụng giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm. Ông đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Thu N là được chia tài sản chung căn nhà số 32 đường số A, khu dân cư V, phường X, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh với số tiền là 800.000.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Đại diện nguyên đơn là ông Trần Thế K vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và bổ sung chứng cứ mới tại cấp phúc thẩm, gồm:
Hợp đồng chuyển nhượng đất tái định cư ngày 13/10/2009 giữa ông Nguyễn Văn A và ông Trần Văn H cùng các giấy tờ liên quan đến tài sản tranh chấp như: Đơn đề nghị xác nhận tình trạng nhà ở ngày 09/03/2010 của ông Trần Văn H ; Quyết định cấp số nhà; Giấy đăng ký xây dựng; Bản vẽ xây dựng.
Ông Trần Văn H có đơn xin xét xử vắng mặt và yêu cầu giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Ông Nguyễn Văn A xin vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm và không có ý kiến yêu cầu gì về việc tranh chấp nêu trên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và đương sự thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Do bên nguyên đơn xuất trình chứng cứ mới đã nêu ở trên tại cấp phúc thẩm, các chứng này liên quan trực tiếp đến việc tranh chấp mà cấp sơ thẩm chưa xem xét đánh giá nên đề nghị hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ về cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
Đơn kháng cáo của bên nguyên đơn làm trong hạn luật định nên được chấp nhận.
Bị đơn là ông Trần Văn H có đơn xin xét xử vắng mặt và người làm chứng là ông Nguyễn Văn A có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử phúc thẩm xét xử vắng mặt các đương sự trên theo thủ tục chung.
Xét yêu cầu kháng cáo của bên nguyên đơn có đủ căn cứ xác định:
Bà Trần Thị Thu N và ông Trần Văn H đã ly hôn theo quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 512/2015/QĐST - HNGĐ ngày 29 tháng 5 năm 2015 của Tòa án nhân dân quận B Thành phố Hồ Chí Minh.
Về tài sản chung, nợ chung và các nghĩa vụ dân sự khác: Bà Trần Thị Thu N và ông Trần Văn H tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Do không tự thỏa thuận được việc phân chia tài sản chung giữa bà N và ông H nên bà yêu cầu Tòa án chia tài sản sau ly hôn là căn nhà số 32 đường số A, khu dân cư V, phường X, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của bà N do nguyên đơn không có chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm bên nguyên đơn đã bổ sung các chứng cứ mới, gồm:
Hợp đồng chuyển nhượng đất tái định cư ngày 13/10/2009 giữa ông Nguyễn Văn A và ông Trần Văn H cùng các giấy tờ liên quan đến tài sản tranh chấp như: Đơn đề nghị xác nhận tình trạng nhà ở ngày 09/03/2010 của ông Trần Văn H ; Quyết định cấp số nhà; Giấy đăng ký xây dựng; Bản vẽ xây dựng liên quan đến tài sản đang tranh chấp là nhà đất tại số 32 đường số A, khu dân cư V, phường X, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh thuộc nền tái định cư số 46 lô 83 mà bên nguyên đơn yêu cầu tòa án giải quyết.
Do bên nguyên đơn xuất trình chứng cứ mới đã nêu ở trên tại cấp phúc thẩm, các chứng này liên quan trực tiếp đến việc tranh chấp mà cấp sơ thẩm chưa xem xét đánh giá trong việc thẩm tra, xác minh, định giá tài sản tranh chấp mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được nên để đảm bảo quyền lợi của các bên đương sự tham gia tố tụng qua hai cấp xét xử cần thiết hủy án sơ thẩm, giao hồ sơ về lại Tòa án nhân dân quận B giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
Mặt khác, do có chứng cứ mới nên cần xác định lại tư cách ông Nguyễn Văn A là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, làm rõ lại các bản khai của ông Nguyễn Văn A để xác định sự thật khách quan; đưa ông Trần Đình H1 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bà Nguyễn Thị T với tư cách là người làm chứng.
Việc hủy này không có lỗi của cấp sơ thẩm.
Hoàn tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm cho đại diện nguyên đơn. Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Khoản 3 Điều 148, Điều 293, Khoản 3 Điều 308, Điều 310, Điều 313 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Trần Thị Thu N.
Hủy bản án sơ thẩm số 472/2017/HNGĐ-ST ngày 20 tháng 4 năm 2017 của Tòa án nhân dân quận B, giải quyết vụ việc: “Tranh chấp tài sản chung sau khi ly hôn”, giữa: Nguyên đơn: Bà Trần Thị Thu N; Bị đơn: Ông Trần Văn H
Giao toàn bộ hồ sơ về lại Tòa án nhân dân quận B giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
Hoàn tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đồng cho đại diện nguyên đơn là ông Trần Thế K theo Biên lai thu số 0000135 ngày 05/5/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Án xử công khai phúc thẩm, có hiệu lực pháp luật thi hành.
Bản án 766/2017/HNGĐ-PT ngày 24/08/2017 về tranh chấp tài sản chung sau khi ly hôn
Số hiệu: | 766/2017/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 24/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về