Bản án 76/2021/HS-ST ngày 28/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 76/2021/HS-ST NGÀY 28/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm C khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 62/2021/TLST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2021/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

1. Trần Văn C sinh ngày 20 tháng 5 năm 1994 tại Thái Bình. Nơi cư trú: Thôn V, xã H, huyện T, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn C và bà Lê Thị X; chưa có vợ, con; tiền sự: Không; tiền án: 01 tiền án tại bản án số 39/2019/HSST ngày 29 tháng 5 năm 2019 Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xử phạt 01 năm tù về tội Cưỡng đoạt tài sản (chấp hành xong hình phạt ngày 19/10/2019); bị tạm giữ từ ngày 21 tháng 3 năm 2021, tạm giam từ ngày 26 tháng 3 năm 2021; có mặt.

2. Trần Huy H (tên gọi khác: Trần Huy H) sinh ngày 10 tháng 10 năm 1994 tại Thái Bình. Nơi cư trú: Thôn V, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Huy T và bà Giang Thị N; có vợ là Giang Đào Hồng H và 01 con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: có 02 tiền án đã được xóa án tích tại bản án số 31/2015/HSST ngày 19 tháng 6 năm 2015 Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (chấp hành xong hình phạt ngày 19/12/2015) và tại bản án số 39/2016/HSST ngày 30 tháng 5 năm 2016 Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (chấp hành xong hình phạt ngày 16/11/2016); bị tạm giữ từ ngày 21 tháng 3 năm 2021, tạm giam từ ngày 26 tháng 3 năm 2021; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 45 phút ngày 21 tháng 3 năm 2021, tổ Công tác Công an thị trấn An Dương trên đường tuần tra tại khu vực tổ 2, thị trấn An Dương, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng kiểm tra phát hiện Trần Văn C điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 17B6-307.23 chở Trần Huy H có biểu hiện nghi vấn nến tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra thu giữ: 01 túi nilong màu trắng, kích thước 3x3,5cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng ở ngăn ngoài cùng của chiếc ba lô H đang đeo (theo C và H khai là ma túy đá); 01 xe mô tô Yamaha biển kiểm soát 17B6- 307.23; 01 ba lô vải màu đen cam; 01 kìm cộng lực làm bằng kim loại dài 50cm; 01 bình ắc quy vỏ màu đỏ; 01 vỏ bao dứa màu xanh; 01 súng phóng tên tự chế; 01 hộp giấy kích thước 8x2cm bên trong có chứa nhiều dây thun; 01 tay vặn làm bằng kim loại màu đen. Cơ quan Công an đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng (ghi là chất ma túy) và đưa H, C về trụ sở làm việc.

Tại Kết luận giám định số 225/KLGĐ-MT ngày 26 tháng 3 năm 2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Tinh thể màu trắng của mẫu số QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,25 gam, là loại Methamphetamine. Xét nghiệm, giám định chất ma túy có trong nước tiểu của Trần Huy H và Trần Văn C cho thấy: Trần Huy H và Trần Văn C dương tính với chất ma túy, loại Methamphetamine.

Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần Huy H và chỗ ở của Trần Văn C. Kết quả tại chỗ ở của C, không thu giữ đồ vật, tài liệu gì; tại chỗ ở của H, thu giữ tại góc bếp 01 chai nhựa nhãn hiệu C2 nắp chai nhựa đục 02 lỗ có gắn coóng thủy tinh, 01 ống hút nhựa (H khai để sử dụng ma túy đá).

Tại Cơ quan điều tra, H và C khai nhận: Khoảng 16 giờ ngày 18 tháng 3 năm 2021, C đi đến nhà H ở thôn Vũ Thành Đông, xã T, bảo H ứng tiền mua ma túy về để cả hai cùng sử dụng, C sẽ trả tiền H sau, H đồng ý và Hoẳng đi đến khu vực cầu Cau thuộc thôn Văn Hàn Tây, xã T mua của 01 người đàn ông không quen biết 01 túi ma túy đá với giá 200.000 đồng. Đến tối cùng ngày, C đến nhà H và được H thông báo số tiền và gói ma túy H đã mua, C đồng ý sẽ trả cho H 100.000 đồng tiền mua ma túy sau. Sau đó, tại bếp nhà H, H lấy gói ma túy từ trong túi áo ra, xúc một ít ma túy đá vào cóong rồi dùng bật lửa hàn mép túi lại và cất vào ngăn ngoài cùng của ba lô treo trên tường, cả hai cùng nhau sử dụng số ma túy H vừa lấy ra.

Đến khoảng 20 giờ ngày 20 tháng 3 năm 2021, C đến nhà H rủ H cùng đi trộm chó và H đồng ý. Tại đây, C hỏi H “Còn đồ không?” (ý là hỏi số ma túy mua ngày 18/3/2021 còn không). Khi H trả lời còn ma túy thì tại bếp nhà H, H lấy trong ngăn khóa trước ba lô gói nilong bên trong có ma túy còn lại sau khi cả hai cùng sử dụng ngày 18/3/2021. C lấy bộ sử dụng ma túy ở góc bếp, xúc ma túy cho vào coóng, rồi dùng bật lửa hàn lại miệng túi và đưa cho H, đồng thời C bảo H cất đi để khi nào đi trộm chó về cả hai cùng sử dụng tiếp. H cất túi ma túy còn lại vào ngăn ngoài cùng của chiếc ba lô treo trên tường mà H vừa lấy ma túy ra, sau đó cả hai cùng sử dụng ma túy. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, C về nhà và lấy bình ắc quy, kìm cộng lực để chuẩn bị đi trộm chó. Đến khoảng 00 giờ ngày 21/3/2021, H đi xe mô tô biển kiểm soát 17B6-307.23 mang theo ba lô đựng gói ma túy nêu trên sang nhà C đón C, sau đó C điều khiển xe máy chở H đi đến khu vực thị trấn An Dương để trộm chó và bị lực lượng C an bắt quả tang, thu giữ vật chứng như đã nêu ở trên, trong đó thu giữ gói ma túy ở ngăn ngoài ba lô H đang đeo.

Cáo trạng số 63/CT-VKS-AD ngày 08 tháng 9 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng đã truy tố các bị cáo Trần Huy H và Trần Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên toà, các bị cáo Trần Văn C và Trần Huy H khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu, các bị cáo đều nhận thức hành vi của mình là trái pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh và hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; các điều 17, 38 và 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Văn C từ 24 đến 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; các điều 17, 38 và 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Huy H từ 18 đến 24 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định; 01 ba lô vải màu đen cam; 01 kìm cộng lực làm bằng kim loại dài 50cm; 01 bình ắc quy vỏ màu đỏ; 01 vỏ bao dứa màu xanh; 01 súng phóng tên tự chế; 01 hộp giấy kích thước 8x2cm bên trong có chứa nhiều dây thun; 01 tay vặn làm bằng kim loại màu đen và 01 chai nhựa nhãn hiệu C2 nắp chai nhựa đục 02 lỗ có gắn cóong thủy tinh, 01 ống hút. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

- Về chứng cứ xác định các bị cáo có tội và tội danh:

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng thu giữ, với Kết luận giám định số 225/KLGĐ- MT ngày 26 tháng 3 năm 2021 và với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nên đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 01 giờ 45 phút ngày 21 tháng 3 năm 2021 tại khu vực tổ 2, thị trấn An Dương, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng các bị cáo Trần Huy H và Trần Văn C đã thực hiện hành vi cất giấu 0,25 gam ma túy Methaphetamine ở ba lô cầm theo của H với mục đích sử dụng. Việc các bị cáo cất giấu trái phép chất ma túy là Methamphetamine có khối lượng 0,25 gam nhằm mục đích sử dụng đã phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ và đúng pháp luật.

- Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:

[3] Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Loại tội phạm này đang có chiều hướng gia tăng, gây mất trật tự trị an xã hội và là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác nên cần xét xử nghiêm để giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[4] Bị cáo Trần Huy H không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo Trần Văn C có 01 tiền án chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội mới do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[5] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo C đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự nên bị cáo C được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Về phân hóa vai trò và mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo:

[6] Vụ án có đồng phạm, Hội đồng xét xử đánh giá vai trò của các bị cáo như sau: Bị cáo C là người đề xuất đi mua ma túy về sử dụng, H là người trực tiếp mua ma túy, các bị cáo cùng bàn bạc cất giấu ma túy để sử dụng nên đánh giá vai trò của các bị cáo là ngang nhau. Bị cáo C có 01 tiền án chưa được xóa án tích, bị cáo H không có tiền án nhưng nhân thân bị cáo có 02 tiền án đã được xóa án tích. Điều đó chứng tỏ các bị cáo đều có nhân thân xấu, ý thức chấp hành phát luật kém và biết rõ tác hại của ma túy nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội để thỏa mãn nhu cầu sai trái của bản thân nên cần áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc đối với các bị cáo. Bị cáo C có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nên hình phạt bị cáo C sẽ cao hơn bị cáo H.

- Về hình phạt bổ sung:

[7] Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, các bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét tính chất, mức độ phạm tội và hoàn cảnh gia đình của các bị cáo nên miễn hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

- Về vật chứng:

[8] Đối với ma túy là heroine còn lại sau giám định thu giữ của bị cáo là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành; 01 chai nhựa hiệu C2 liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo, không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[9] Đối với 01 ba lô vải màu đen cam liên quan đến hành vi phạm tội giá trị sử dụng nhỏ nên tịch thu tiêu hủy; 01 kìm cộng lực làm bằng kim loại dài 50cm; 01 bình ắc quy vỏ màu đỏ; 01 vỏ bao dứa màu xanh; 01 súng phóng tên tự chế; 01 hộp giấy kích thước 8x2cm bên trong có chứa nhiều dây thun; 01 tay vặn làm bằng kim loại màu đen là những đồ vật các bị cáo dùng để chuẩn bị thực hiện hành vi vi phạm pháp luật giá trị sử dụng nhỏ nên cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát nhãn hiệu Yamaha BKS 17B6- 307.23 là của ông Tạ Ngọc T cho ông Trần Huy T (bố đẻ của H) mượn xe trước ngày các bị cáo sử dụng xe phạm tội. Ngày 21 tháng 3 năm 2021, H tự ý lấy xe đi, ông T và ông T không biết việc các bị cáo sử dụng xe vào việc phạm tội, nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Dương đã trả lại cho ông T là chủ sở hữu hợp pháp quản lý, sử dụng là có căn cứ.

- Về án phí và quyền kháng cáo:

[11] Theo quy định của pháp luật bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; các điều 17, 38, 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Trần Văn C 24 (Hai mươi tư) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 21 tháng 3 năm 2021.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; các điều 17, 38, 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Trần Huy H (tên gọi khác: Trần Huy H) 21 (Hai mươi mốt) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 21 tháng 3 năm 2021.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Trần Huy H và Trần Văn C.

Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định cùng toàn bộ vỏ giấy gói mẫu vật gửi giám định có dấu niêm phong của cơ quan giám định số 225/KLGĐ(DD6)9 và 01 ba lô vải màu đen cam; 01 kìm cộng lực làm bằng kim loại dài 50cm; 01 bình ắc quy vỏ màu đỏ; 01 vỏ bao dứa màu xanh; 01 súng phóng tên tự chế; 01 hộp giấy kích thước 8x2cm bên trong có chứa nhiều dây chun; 01 tay vặn làm bằng kim loại màu đen và 01 chai nhựa nhãn hiệu C2 nắp chai nhựa đục 02 lỗ có gắn cóong thủy tinh, 01 ống hút (Vật chứng có đặc điểm chi tiết theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 08 tháng 9 năm 2021 và tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương, thành phố Hải Phòng).

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6 và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Trần Văn C và Trần Huy H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành án tại Điều 2, Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2021/HS-ST ngày 28/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:76/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về